chuyện với chính mình thì không mấy thỏa mãn đâu.”
“Tại sao ông lại nói chuyện với chúng tôi?” Stephanie hỏi.
“Bà là vợ góa của Lars. Tôi có thể làm bất kỳ việc gì cho ông ấy.”
Claridon chỉ tay. “Và lá thư này. Do một người biết nhiều chuyện gửi.
Thậm chí có thể là do những người mà tôi vừa nói, những người không cho
phép ai cản đường mình ấy.”
“Lars có cản đường họ không?” Stephanie hỏi.
Claridon gật đầu. “Rất nhiều người muốn biết những điều mà ông ấy
biết.”
“Ông có quan hệ thế nào với ông ấy?” Stephanie hỏi.
“Tôi từng buôn tranh. Ông ấy đã mua nhiều thứ rất hiếm.”
Malone biết rằng những cửa hàng sách cũ là nơi được cả các nhà sưu
tầm và nhà nghiên cứu năng lui tới.
“Thực sự là chúng tôi đã trở thành bạn bè và tôi bắt đầu chia sẻ niềm say
mê với ông ấy. Vùng này là nhà tôi. Gia đình tôi sống ở đây kể từ thời
Trung cổ. Một số tổ tiên của tôi là người Cathar, đã từng bị người Thiên
Chúa giáo thiêu sống. Nhưng sau đó, Lars đã chết. Thật là đáng buồn.
Những người khác từng theo ông ấy cũng chết. Cho nên tôi đã đến đây.”
“Những người khác nào?”
“Một người buôn sách ở Seville. Một thủ thư ở Marseille. Một sinh viên
ở Rome. Đó là chưa nói đến Mark.”
“Ernst Scoville cũng đã chết,” Stephanie nói. “Bị xe cán tuần trước,
ngay trước khi tôi đến để nói chuyện với ông ấy.”
Claridon làm dấu thánh thật nhanh. “Quả thực là những kẻ tìm kiếm đó
rất tàn bạo. Nói cho tôi đi, thưa quý bà thân mến, bà có biết gì không?”
“Tôi có quyển nhật ký của Lars.”
Một cái nhìn đầy vẻ quan tâm lướt qua khuôn mặt người đàn ông. “Vậy
thì bà đang ở trong tình thế hiểm nghèo rồi.”
“Thế nào cơ?” Malone hỏi.
“Khủng khiếp lắm,” Claridon nói, từ ngữ bắn ra rất nhanh. “Khủng
khiếp vô cùng. Thật không đúng đắn khi bà dính vào chuyện này. Bà đã
mất chồng và con trai...”