bố trí những viên đá. Chín ô đá theo chiều ngang, bảy theo chiều đứng.
Anh cúi xuống và chiếu đèn vào bên dưới. Không có vết vữa ở mặt trên.
Giống hệt ban thờ.
“Phải bỏ đống sách này xuống,” anh nói.
“Ông đã nói là không được chạm vào chúng cơ mà.”
“Những gì có ở bên trong mới quan trọng.”
Anh bỏ cái đèn xuống và nhấc mấy quyển sách lên. Bụi rơi xuống lả tả.
Anh nhẹ nhàng đặt chúng lên trên sàn đất. De Roquefort làm theo. Mỗi
người mất ba lần khiêng thì mặt trên không còn một quyển sách nào.
“Nó chuyển động được đấy,” anh nói.
Mỗi người nắm lấy một đầu và mặt đá dịch chuyển, dễ dàng hơn nhiều
so với ban thờ trên mặt đất, vì bệ đá chỉ có kích thước nhỏ bằng một nửa.
Họ đẩy nó ra, phiến đá vôi rơi xuống sàn, vỡ thành nhiều mảnh. Phía trong
bệ đá, Mark nhìn thấy một cái hộp khác, nhỏ hơn, khoảng hai mươi tư inch
chiều dài, rộng khoảng một nửa đó, và cao khoảng mười tám inch. Được
làm bằng đá màu ghi - đá vôi, nếu anh không nhầm - và vẫn ở tình trạng rất
tốt.
Anh cầm lấy cái đèn và chiếu vào đó. Đúng như anh đã nghĩ, có chữ viết
ở trên.
“Một cái bình đựng cốt,” De Roquefort nói. “Có biết là của ai không?
Anh xem xét dòng chữ và thấy mừng vì được viết bằng tiếng Aramaic.
Chắc là đúng. Tập tục để người chết trong các hầm mộ ngầm dưới đất cho
đến khi tất cả chỉ còn lại đống xương khô, rồi chúng được cho vào một cái
bình đá, rất quen thuộc với người Do Thái trong thế kỷ đầu tiên. Anh biết
rằng hàng nghìn tiểu đựng cốt vẫn còn lại. Nhưng chỉ một phần tư trong số
chúng có chữ viết ở trên để có thể biết được bên trong là xương của ai -
hiện tượng này được giải thích bằng việc dân chúng thời đó ít người biết
chữ. Trong nhiều thế kỷ, nhiều bình đựng cốt giả đã xuất hiện - đặc biệt là
một cái được cho là đựng xương của James, người anh em cùng cha khác
mẹ của Jesus. Một cách kiểm tra độ xác thực là dựa trên kiểu chất liệu được
sử dụng - đá vôi từ những hòn núi gần Jerusalem - cùng với cách khắc chữ,
rồi kiểm tra bằng kính hiển vi lớp gỉ đồng, và kiểm tra chất cácbon.