đáng sợ này. Uống mỗi người vài ngụm từ số nước ít ỏi còn lại đã bị đun
nóng đến nhiệt độ của máu, chúng tôi đứng dậy lảo đảo bước đi tiếp.
Chúng tôi đã đi được gần năm mươi dặm sâu trong sa mạc. Nếu còn nhớ
những lời dặn của Xinvextơra và xem lại tấm bản đồ của ông ta, bạn đọc sẽ
thấy sa mạc kéo dài bốn mươi Liơ, và Hồ “nước thối” được đánh dấu ngay
chính giữa. Bốn mươi Liơ tức là một trăm hai mươi dặm, nghĩa là chúng tôi
chỉ cách chỗ có nước nhiều nhất là hai mươi hoặc mười lăm dặm. Tất nhiên
nếu quả đúng là có một hồ nước như thế.
Sau một ngày ròng rã phải chịu đựng những thử thách ghê gớm, bây giờ
chúng tôi lê chân, chậm chạp tiến về phía trước, với tốc độ hơn nửa dặm
một giờ. Mặt trời lặn, chúng tôi dừng lại nghỉ, và trong khi chờ trăng lên,
chúng tôi uống vài ngụm nước rồi tranh thủ ngủ chút ít. Trước khi nằm
xuống, Ambov chỉ cho chúng tôi một ngọn đồi không lớn lắm đang in hình
mờ mờ trên nền sa mạc bằng phẳng, cách chúng tôi gần tám dặm. Từ xa
trông nó như một tổ kiến, và vừa nằm thiếp ngủ, tôi vừa tự hỏi mình không
hiểu đó là cái gì. Trăng lên. Chúng tôi đứng dậy đi tiếp, hoàn toàn kiệt sức
vì nóng và khát. Ai chưa trải qua những thử thách này, khó mà hình dung
nổi cả sự gian khổ của chúng tôi lẫn những gì chúng tôi đã trải qua ngày
hôm ấy. Không phải chúng tôi đi, mà lảo đảo bên này sang bên kia, chốc
chốc lại ngã xuống vì kiệt sức. Cứ đi được một giờ, hầu như lần nào chúng
tôi cũng phải ngồi xuống nghỉ. Thậm chí chẳng còn đủ sức để nói chuyện.
Trước đấy thuyền trưởng Huđơ bao giờ cũng nói, đùa vui vẻ, vì ông ta là
người rất vui tính, thế mà bây giờ tính ấy của ông ta cũng biến đâu mất.
Cuối cùng, gần hai giờ sáng, hoàn toàn rã rời cả về thể xác lẫn tinh thần,
chúng tôi đến được chân của một đồi cát kì dị, mà ngay từ lúc mới nhìn
chúng tôi đã thấy giống một chiếc tổ kiến. Nó cao khoảng ba mươi mét và
chiếm một diện tích gần một nghìn mét vuông.
Chúng tôi dừng lại ở đây, và bị cơn khát khủng khiếp dày vò, chúng tôi
đã uống cạn đến giọt cuối cùng số nước còn lại. Thế mà mỗi người cũng chỉ