ngày trước. Cơm ăn áo mặc và mọi vật dụng cần thiết, chàng đều có sẵn,
không thiếu một thứ gì. Sắc đẹp tuyệt vời, tính nết hiền dịu của Giáng
Hương luôn luôn làm cho chàng thỏa dạ. Chàng lại được đi ngao du các
động tiên, thơ ngâm vịnh làm ra thao thao bất tuyệt. Tuy nhiên, lâu dần, Từ
Thức lại thấy như thiếu một cái gì, một hôm chàng tâm sự với Giáng
Hương:
- Xa cha ngái mẹ đã lâu, muốn về thăm một chuyến có được chăng?
Thấy vợ ngần ngừ chàng nói thêm:
- Chỉ cho về gặp bà con xóm làng một lần chót, rồi tôi sẽ đến đây ở với
mình mãi mãi.
Giáng Hương thủ thỉ khuyên dỗ chồng hãy bỏ cái ý nghĩ trở về vì cõi tục và
cõi tiên là hai con đường cách biệt. Nhưng Giáng Hương càng khuyên bao
nhiêu thì nỗi nhớ nhà của Từ Thức càng nặng bấy nhiêu. Thấy chồng tuy
không đòi về nữa nhưng nét mặt ngày một héo hon. Giáng Hương đành
phải thưa với mẹ. Mẹ nàng thương hại:
- Không ngờ gã ấy còn lưu luyến bụi hồng đến thế!
Nói rồi cho người đẩy xe mây đến cho Từ Thức trở về. Chàng vội vã từ giã
vợ và mẹ vợ, từ giã các bạn tiên, rồi bước lên xe. Chỉ trong chớp mắt,
chàng đã thấy lại quê hương cũ. Các rặng núi, con sông, những lũy tre dưới
mắt chàng vẫn không có gì khác xưa. Xe đặt chàng xuống giữa một bến
sông, nơi mà ngày còn nhỏ chàng vẫn ra đấy tắm mát và bơi lội. Nhưng khi
nhìn kỹ cảnh vật thì Từ Thức lấy làm ngờ ngợ. Mới ba năm mà nhà cửa
vườn tược làm sao đã khác. Dân làng cũng chẳng có một người nào quen
mặt. Hỏi một người đi đường, người ấy cho biết đúng là tên của làng chôn
rau cắt rốn của mình. Nhưng khi hỏi đến bố mẹ và em gái thì ai cũng lắc
đầu trả lời không biết.
Sau cùng, Từ Thức đem họ tên của mình hỏi thăm các cụ già trong làng, thì
một người ngẫm nghĩ hồi lâu rồi đáp:
- Từ lúc còn nhỏ, tôi có nghe truyền lại rằng các cụ tổ năm đời nhà tôi có
một cụ cũng tên họ như thế, trước làm quan huyện rồi treo ấn từ về, một
hôm đi chơi sa vào hang núi mặt tích. Từ bấy đến nay dễ đã gần ba trăm
năm.