các cốt truyện tương ứng. Đây chính là sự trình bày trong thực tiễn những
kiến giải tổng quát ở phần nghiên cứu (Phần I chương III: Truyện cổ Việt
nam qua các thời đại) mà M. Đuy-răng (M. Durand) và Lê Văn Hảo đều đã
thừa nhận[2]. Một vài nhà nghiên cứu có cách định vị cho trường hợp
truyện này hay truyện khác, nhưng hình như đã không quan tâm đến tổng
thể cũng như đến lịch trình. Tôi vẫn nghĩ rằng cách nhìn của Nguyễn Đổng
Chi, đến nay là thỏa đáng và đi trước nhiều người.
Còn một điều nữa. Phải chăng cách gộp những câu chuyện theo những mục
trên đây - lấy ngay vấn đề xã hội làm hệ quy chiếu, chứ không theo kiểu
căn cứ vào tính chất của câu chuyện thường được nhận định khác nhau - có
phần hợp với cách hiểu của người Việt-nam, có thể gây cảm tưởng về một
"phôn-clo Việt-nam như tự nó" hơn. Tôi đã nói điều này với Anh. Anh
không trả lời về sự đồng tình của tôi, mà chỉ tán thành ở một khía cạnh
nhận thức. Sự tán thành của anh đã động viên tôi về luận điểm: "folklore
Việt-nam ra đời". Tôi đã ghi lòng biết ơn anh về điểm đó[3].
*
* *
Còn một vấn đề nữa cũng nên nghĩ đến khi miệt mài nghe Nguyễn Đổng
Chi kể chuyện trong tập Kho tàng. Tôi không rõ trong sự say mê của người
đọc bộ sách có bao nhiêu phần vì nội dung của truyện và bao nhiêu phần vì
cách kể của soạn giả. Bởi vì, quả thực, cho đến hôm nay, tìm được một tác
giả xuất sắc kể truyện cổ tích Việt-nam, cũng còn phải đắn đo suy nghĩ. Và
ngay yêu cầu khoa học, yêu cầu thẩm mỹ của phương pháp kể cũng có ý
kiến khác nhau. Có người bảo phải kể cho đúng phong cách dân gian. Có
người còn nghĩ rằng phải biết đối tượng nghe là người thời nay, thì cách kể
cũng phải cho hợp thời một chút. Viết cổ tích là làm một công trình nghệ