. Ông cũng nghiên cứu sâu vấn đề nông dân trong lịch sử Việt-nam thời
trung đại. Với nhiều nguồn tư liệu xác thực, ông trình bày các kiến giải độc
lập về những vấn đề sở hữu ruộng đất của làng xã, quan hệ nhà nước và
làng xã, quan hệ thân tộc và các biện pháp tương trợ trong làng xã Việt nam
dưới thời trung đại... Đặc biệt, ông còn ứng dụng phương thức sản xuất
châu Á để tìm hiểu quy luật vận động của các phong trào nông dân trong
lịch sử dân tộc từ xa xưa cho đến gần đây. Các công trình Lịch sử phong
trào nông dân Việt-nam dưới thời trung đại (tập I và II) và Góp phần tìm
hiểu phong trào nông dân Việt-nam trong lịch sử xã hội phong kiến , theo
cách nhận định khiêm tốn của chính tác giả, tuy là kết quả nghiền ngẫm
trong nhiều năm và có nhiều khám phá đặc sắc không giống người khác
(1965 - 1978), song cũng chỉ mới là một cách nêu vấn đề và một giải đáp
bước đầu chưa thể gọi là hoàn chỉnh, những băn khoăn thao thức rất lâu của
ông và của cả giới sử học trên vấn đề rất quan trọng này.
Nguyễn Đổng Chi vốn là con người chân chất. Ông sống gần gũi với nhân
dân lao động, và yêu họ với những tình cảm đôn hậu, xuất phát tự đáy lòng.
Còn nhớ vào khoảng tháng Tư 1945, ít lâu sau đảo chính Nhật, nạn đói
khủng khiếp bắt đầu hùng lên dữ dội ở Nghệ - Tĩnh. Nhìn những người chết
đói nằm xám ngắt bên đường, và hàng đoàn người đói kéo đi lũ lượt, lốc
thốc, ai mà không đau lòng. Nhóm thanh niên Cứu Quốc Can-lộc được lệnh
tổ chức cứu đói. Chúng tôi vừa lo xây dựng những nhà trẻ mồ côi, chuyển
các em còn sống sót từ vùng biển lên vùng trên, vừa lo đi quyên góp thóc
gạo để cứu tế. Nguyễn Đổng Chi là một người kiên trì và hăng hái nhất.
Ông được phân công cùng tôi đi khắp các làng xã trong toàn huyện, tìm đến
các nhà giàu để lạc quyên. Chỉ cần mang theo một cuốn sổ, để hễ thuyết
phục được nhà nào quyên cúng bao nhiêu là ghi vào sổ, mời họ ký vào,
hôm sau sẽ có những anh em khác đến thu nhận hiện vật. Ngày này qua
ngày khác, từ sáng đến chiều, hai chúng tôi cứ đi bộ khắp mọi nẻo đường
xa tăm tắp từ biển lên núi, để đến với những ngôi nhà tường cao, dậu kín,
và đàn chó dữ, để nói mãi nhưng lời lặp đi lặp lại mà không thấy nhàm, và
để ghi chép cho đầy cuốn sổ, đầy bao nhiêu hay bấy nhiêu. Chúng tôi làm