cho đúc một cái tháp cao 9 tầng gọi là tháp Báo-thiên. Tháp đúc xong hiện
ra giữa kinh thành vòi vọi đứng đâu cũng thấy. Khổng Lồ lại đúc một tượng
phật cao vừa 6 trượng, một cái đỉnh to vừa bằng mười người ôm. Rồi còn
bao nhiêu đồng, Khổng Lồ cho đúc một quả "hồng chung"- chuông đúc
xong lớn không thể tưởng tượng được, đến nỗi khi đánh lên hồi đầu tiên,
tiếng ngân vang cùng khắp bốn cõi, vang sang đến tận bên Trung-quốc.
Lại nói chuyện con trâu vàng nằm trước kho đồng của vua Trung Quốc khi
nghe tiếng chuông, tự nhiên như được thức tỉnh dậy. Vì đồng đen là mẹ của
vàng cho nên do tiếng ngân, nó biết là mẹ của nó đã ở nước Việt. Nó bèn
đứng dậy vươn người rồi ba chân bốn cẳng chạy một mạch sang Nam,
không một sức nào có thể cản nổi. Cuối cùng nó tìm đến quả chuông do
Khổng Lồ mới đúc, hôn hít hồi lâu rồi nằm xuống bên cạnh.
Thấy việc không ngờ lại xảy ra như thế, Khổng Lồ tự nghĩ nếu để chuông
lại thì mỗi lần đánh chuông, vàng trong bốn biển sẽ qui tụ cả lại vào trong
nước mình. Như thế sẽ rất nguy hiểm vì gây hiềm khích với tất cả mọi
nước. Ông bèn tâu vua xin đem quả chuông ném cho mất tích để tránh một
cuộc binh đao tai hại có thể xảy tới. Nhận thấy lời tấu có lí, vua cũng bằng
lòng. Ngày ném, Khổng Lồ đứng trên núi xách quả chuông vứt xuống hồ
Tây. Chuông bị tung lên không bay ra giữa hồ, vang lên một hồi rất dữ dội.
Con trâu vàng nghe tiếng, vội theo mẹ nó nhảy ngay xuống hồ. Từ đó về
sau thỉnh thoảng những lúc thanh vắng, người ta vẫn thấy quai chuông nổi
lên mặt nước. Còn con trâu vàng đôi lúc lên bờ hồ đi dạo, hễ thoạt thấy
bóng người là lặn xuống ngay. Cũng vì câu chuyện trên mà hồ Tây còn có
tên là vực Kim-ngưu (Trâu vàng). Riêng Khổng Lồ về sau được thợ đồng
thờ làm thần nghề đúc đồng[1].