bao quát rộng hơn. Và tính khái quát này không hề ảnh hưởng gì đến giá
trị, sắc thái địa phương của câu chuyện. Chủ đề của các truyện Sự tích đầm
Nhất dạ và bãi Tự nhiên, Sự tích đầm Mực, Sự tích bãi Ông Nam,Sự tích
đền Cờn, v.v... hầu như là sự biểu dương phẩm chất cao quý của con người.
Đó là tinh thần quên cái riêng vì cái chung, quên mình vì nghĩa vụ; đó cũng
là tinh thần đấu tranh gian khổ với dục vọng, với bản tính tự nhiên.
Những ý nghĩa giáo dục có tính chất phổ biến như thế, đồng thời lại được
biểu hiện trong những hình tượng có nét đặc thù rõ rệt, liên quan khăng khít
với lịch sử dài lâu của một con sông, ngọn núi, bãi cát, cánh đồng...; mỗi
câu chuyện gây nên lòng tự hào cũng như lòng yêu mến quê hương đất
nước của người dân địa phương.
Cũng cần nhớ rằng truyền thuyết cổ tích là lịch sử truyền miệng của những
dân tộc chưa có chữ viết; đấy cũng là lịch sử truyền miệng của đại đa số
quần chúng không biết chữ. Khi con người có ý thức về sự tồn tại và sự
trưởng thành của mình thì việc tìm hiểu quá khứ, bảo tồn ký ức về quá khứ
là một nhu cầu tự nhiên và cần thiết. Nhưng cổ tích chép sử theo cách của
nó. Nó biết chọn hình ảnh để cô đọng sự kiện; nó biết dùng thủ pháp cách
điệu để nhấn mạnh cái mà nó lưu ý. Cây gươm thần trong Sự tích Hồ Gươm
đến với Lê Lợi và trả lại cho rùa vàng là hiện thân của sức mạnh đoàn kết
dân tộc chống ngoại xâm cũng như lòng yêu chuộng cuộc sống thanh bình.
Con rắn trong truyện Rắn báo oán làm cho chúng ta thấm thía biết bao cái
bạo tàn khủng khiếp của chế độ quân chủ chuyên chế đè nặng lên không
phải một mà nhiều thế hệ. Cũng thế, những chòm lông xoăn của Ba Vành là
một cách hình dung bằng nghệ thuật, cái nhược điểm chủ quan khinh địch
của vị đầu lĩnh nông dân trong truyện Ba Vành.
Ngoài các sự kiện lịch sử và nhân vật lịch sử ra, một số đặc điểm của hình
thái sinh hoạt xã hội đã qua cũng được giữ gìn trong cổ tích. Qua truyện
Chàng rể thong manh, ta hiểu được tình cảnh gian khổ của người con trai