của việc sáng tác truyền thuyết cổ tích là thời kỳ công xã thị tộc tan rã, thời
kỳ chiếm hữu nô lệ và phong kiến tiếp nối thịnh hành. Trong điều kiện một
nền sản xuất lạc hậu, kéo dài triền miên từ cổ đại cho đến hết trung cổ, xã
hội loài người đã phải trải qua nhiều nỗi nhọc nhằn vất vả, chịu đựng bao
nhiêu thành kiến ngu muội, quằn quại trong bao nhiêu tranh đoạt đầy máu
và nước mắt, và bị đe dọa bởi bao nhiêu nỗi lo sợ hữu hình và vô hình. Có
thể nói cả một không khí huyền bí tối tăm luôn luôn vây bọc và đè nặng lên
đời sống tinh thần của con người. Tất cả những phương diện này đều để
dấu vết lại trong các loại sản phẩm tinh thần mà con người còn lưu giữ lại
được, trong đó có truyện cổ tích. Và nếu coi đó là hạn chế thì phần tư tưởng
hạn chế rải rác trong kho truyện của ta không phải là hiếm.
Sự xuất hiện của truyện cổ tích thường gắn chặt với những đặc điểm về sản
xuất, về sinh hoạt, tư tưởng của một thời đại lịch sử, cho nên cũng như thần
thoại, nó có thời kỳ phồn vinh và có thời kỳ suy tàn. Thế kỷ của máy móc,
của điện tử là thế kỷ suy tàn của truyện cổ tích. Lúc mà tiểu thuyết, truyện
ngắn, kịch bản, điện ảnh, v.v... xuất hiện và trở nên món ăn tinh thần hợp
"khẩu vị" của quần chúng thì cũng là lúc cổ tích bắt đầu lùi xuống địa vị
thứ yếu, nếu chưa phải là bước xuống khỏi văn đàn. Huyễn tượng ngày
càng được khoa học "giải mã" và tín ngưỡng tuy vẫn còn đầy sức hấp dẫn,
cũng thường xuyên bị khoa học tranh chấp và "khoanh vùng" giới hạn.
Việc sáng tác những câu chuyện hoang đường vì thế bị hạn chế dần, kết quả
là nghệ thuật cổ tích cũng thu hẹp lại.
Tuy có một số ít tác giả bắt chước người xưa đặt nên những truyện tương tự
cổ tích, nhưng dù cố gắng đến đâu, nội dung của chúng cũng không tài nào
còn mang được cái không khí, cái phong vị của truyện cổ tích nữa. Đó là
nghệ thuật của truyện ngắn giả cổ tích, hơn nữa đó lại không phải là những
truyện truyền miệng.