1346
liên quan mật thiết ñến ñặc ñiểm tư duy của người Việt ở chỗ ít khi xa rời lý trí
thế tục. Nếu như cách ñiệu và phóng ñại ở cấp ñộ siêu lý tính là thủ pháp rất
ñược ưa chuộng trong cổ tích thần kỳ của nhiều dân tộc thì ñối với cổ tích Việt-
nam, những thủ pháp này lại có phần xa lạ, ngay những loại hình ngụ ngôn, khôi
hài, tiếu lâm cũng không mấy khi dùng. Những cách nói có tính chất tượng
trưng, chẳng hạn "uống cạn nước sông", "ăn hết một phòng bánh ngọt", hay "con
ngựa chạy một ngày 7 vòng quanh quả ñất" hoặc "ném miếng thịt vào bếp,
miếng thịt biến thành cái kéo", v.v... thật không dễ dàng lọt tai các thế hệ thính
giả truyện cổ tích Việt-nam xưa cũng như nay. Nói thế không phải là truyện của
chúng ta không biết ñến nói ngoa hoặc phóng ñại, nhưng liều lượng của sự
phóng ñại bao giờ cũng có giới hạn.
Ngay cả khi chịu ảnh hưởng cách nói của nước ngoài, truyện cổ tích dân tộc
cũng phải hoán cải lại sao cho hợp lý - ñó là tính chừng mực về "ñộ" trong tư
duy nghệ thuật Việt-nam. Chẳng hạn như ở Khảo dị truyện số 64 ñã so sánh:
chịu ảnh hưởng của một số anh hùng ca truyện cổ của người Tây-nguyên (Ba-na
(Bahnar) và Ja-rai (Djarai)), về tình tiết nhân vật anh hùng (Ghi-ông) ném cái
khiên (mộc) lên trời rồi nhảy theo ngồi lên, ñể nó ñưa mình lên cửa nhà trời
ñánh nhau với ñịch thủ, một dị bản của truyện Chàng Lía (số 64) cũng có tình
tiết tương tự là Lía "thường có thói quen phóng mâm thau lên trời" rồi nhảy theo
ngồi lên, nhưng tính chừng mực về "ñộ" ở ñây không cho phép nhân vật vượt ra
khỏi không gian nghệ thuật của mình: Chàng Lía chỉ dùng mâm ñể... "ñi thăm
các sơn trại" của chàng. Cũng vậy, ở truyện Sọ Dừa của người Cham-pa, nhân
vật anh hùng một mình, không tay không chân mà chăn một lúc ba mươi vạn
con trâu cho nhà vua, trong khi ñó, những dị bản của truyện Sọ Dừa của người
Kinh thì, hoặc chỉ chăn năm chục con trâu cho một nhà giàu
1
, hoặc chăn một ñàn
dê cho phú ông
2
, v.v...
Không chỉ sự ràng buộc trong tâm lý thực tiễn ñã ảnh hưởng ñến tưởng tượng
nghệ thuật của cổ tích, mà triết lý nhân sinh của người Việt cũng tác ñộng mạnh
mẽ ñến sự sáng tạo này. Chẳng phải không có lý khi cho rằng trong tâm thức
người Việt cổ truyền vốn ñã ít chứa ñựng cảm quan tôn giáo. Sự áp ñặt của văn
hóa, tư tưởng Trung-hoa trong khoảng 10 thế kỷ, như trên ñã nói, lại làm cho
thói quen tư duy của cộng ñồng dân tộc nghiêng về cách nhận thức cụ thể hóa,
như việc phân cắt một hiện tượng phức tạp thành các phần tử, các con số ñơn
giản
3
, chứ không nghiêng về cách nhìn nhận những mối liên hệ trừu tượng và
siêu hình (tư duy Ấn-ñộ). Bấy nhiêu ñặc ñiểm từ nội dung ñến hình thức của tư
duy, hợp lại, trước sau sẽ hình thành nên tâm lý sáng tạo nghệ thuật dân tộc, góp
1
Trong Bản khai sách Hữu-lập, sách Vinh-lại và sách Nhiêu-hợp.
2
Trong Truyện cổ Việt-nam của Vũ Ngọc Phan, sách ñã dẫn.
3
Chẳng hạn cách tư duy ba nhất, năm tốt, ba ñảm ñang... cũng là dấu vết của cách nhận thức
khái quát chú trọng sự phân chia về lượng như ñã nói.