1361
kiện ñịa lý hết sức ñặc biệt cùng nhau làm cái việc cướp của giết người trong Bò
béo bò gầy (số 37). Hay là hai truyện Sự tích ñình làng Đa-hòa (số 123) và
Người thợ mộc Nam-hoa (số 105) ñều có ñề tài liên quan ñến cái ñình, kiến trúc
công cộng quan trọng và thiêng liêng trong mô hình văn hóa làng Việt cổ truyền.
Trong kho truyện cổ tích Việt-nam, hầu như không thấy bóng dáng thành thị,
trừ một vài trường hợp hãn hữu có nói ñến kinh kỳ, có phố xá ñô hội (Bà lớn
ñười ươi, số 91), có chợ phiên thị trấn (Bợm lại gặp bợm, số 76), nói ñến thương
cảng nước ngoài (Con mụ Lường, số 84) v.v... Mặc dù có rất ít truyện về thành
thị nhưng truyện cổ tích lại không hiếm những ñề tài mà hình ảnh tầng lớp
thương nhân ñóng vai chủ chốt, thậm chí là ñại thương nhân hay phú thương,
thường có ghe mành buôn bán khắp nơi, hoặc trao ñổi hàng hóa với nước ngoài,
như các truyện Đồng tiền Vạn Lịch (số 41), Thạch Sùng còn thiếu mẻ kho (số
36), Con mụ Lường (số 84), Sợi bấc tìm ra thủ phạm (số 112), Người ñàn bà bị
vu oan (số 109)... Tuy nhiên, ñối chiếu cốt truyện của những truyện này với
những chuỗi dị bản ñồng dạng của cổ tích nước ngoài, ta có khuynh hướng tin
rằng ñấy là những cốt truyện nhập tịch từ ngoài ñến và nhập tịch bằng con
ñường thuyền buôn là chủ yếu. Sỡ dĩ chúng sớm ổn ñịnh và bản ñịa hóa, vì nghề
buôn vốn cũng không xa lạ trong ñời sống của người Việt thời trung ñại. Nhất là
vào các thế kỷ XVI, XVII, XVIII hoạt ñộng của nhiều thương cảng ở Bắc hà
cũng như ở Nam hà khá tấp nập, người nước ngoài ñến buôn bán ở Việt-nam ñã
gây nên một tâm lý xã hội mang tính hai mặt: vừa tò mò, thích thú, vừa cảnh
giác, khinh thường ("Ngô nhớn Ngô con răng trắng nhởn" - Tú Xương). Kết cục
thường không trọn vẹn của số phận hầu hết nhân vật trong các truyện vừa dẫn,
và những yếu tố có tác dụng "lạ hóa" ở những truyện này chứng minh tâm lý hai
mặt của người nông dân cũng như của kẻ sĩ trong xã hội Việt cổ ñối với nghề
buôn ñường biển mà họ cảm thấy như vẫn là một ñám "giang hồ tứ chiếng" với
ñạo ñức có phần "phá cách", và lối sống rất ñỗi lạ lùng.
Kinh ñô trong một số truyện cổ tích chúng ta cũng chỉ là nơi ở của vua chúa,
quý tộc, quan lại, nơi tích tụ giầu sang, tập trung những hội hè long trọng, nơi
qua lại của các bậc anh hùng hào kiệt, nơi các nho sĩ thường ñến ñua tài, chứ
chưa phải là nơi công thương nghiệp phát triển như ở phương Tây. Hình ảnh vua
trong cổ tích không nhiều vì vua dường như không phải là ñối tượng mà sáng tác
dân gian nhắm tới, mặt khác, cũng có một khoảng cách không thể san bằng giữa
thế giới của vua (mà dân gian không ñược biết) với thế giới thế tục. Người dân
vẫn chỉ có thể hình dung hoàng ñế như một ñấng chí tôn và vô thượng như quan
niệm cha truyền con nối mà họ vẫn tuân theo. Bên cạnh vua nhà, trong kho
truyện Việt-nam cũng như kho truyện Khơ-me (Khmer) nhiều khi còn thấp
thoáng bóng dáng ông vua Trung-quốc, một hình ảnh chí tôn và vô thượng khác,
nhưng vai trò nhân vật này xuất hiện trong một số truyện chỉ ñể làm ñối thủ
(nhân vật cản trở) của nhân vật chính, và thắng lợi cuối cùng dĩ nhiên không