1362
thuộc về phía ñối thủ (Bốn anh tài, số 66; Khổng Lồ ñúc chuông, số 67; Lê Như
Hổ, số 63...).
Kho truyện cổ tích Việt-nam cũng có nhắc ñến nhưng thật là ít ỏi hình ảnh
những nàng công chúa, những ông hoàng tử, và vai trò của họ ở ñây xem ra
không có gì nổi bật như những nàng công chúa, ông hoàng tử trong kho truyện
của Ấn-ñộ hay của phương Tây, trừ một vài nhân vật rất cá biệt, ví dụ công chúa
Tiên Dung trong Sự tích ñầm Nhất-dạ và bãi Tự-nhiên (số 28), hay công chúa
Bảo Nương và Ngọc Nương trong Hai nàng công chúa nhà Trần (số 102).
Bộ mặt kinh ñô ñược truyện cổ tích quan tâm ñến nhiều hơn là ở khía cạnh
sinh hoạt của cái xã hội bình dân, phường phố: câu chuyện về những người thợ
thủ công, lớp người góp phần tạo nên sự sống của thành thị, như thợ kim hoàn,
thợ ñúc, thợ giày, thợ bưng trống, lái hương, hàng dầu, hàng rượu... Bên cạnh ñó
là những anh học trò ñi học, ñi thi, những thầy ñồ mở trường dạy học, những nhà
tu hành ñạo Phật, lác ñác còn có những ñạo sĩ, phù thủy, thầy thuốc, thầy ñịa
lý... Và xen lẫn với họ là có một tầng lớp lưu manh, sản phẩm của lối sống lọc
lừa, lấy chợ búa, thành thị làm nơi hoạt ñộng, nơi ñi mây về gió và náu hình ẩn
tích của mình (Bà lớn ñười ươi, số 91; Quận Gió, số 77...).
Thật ra, các tầng lớp làm nghề thủ công, buôn bán, nhà sư, ñạo sĩ và học trò,
cả ñám lưu manh, trộm cắp... không nhất thiết quy tụ ở kinh ñô nên hình ảnh của
họ trong truyện cổ tích không ñặc trưng cho sinh hoạt kinh ñô. Nhưng hoạt ñộng
của họ cũng không còn bó chặt lại trong phạm vi nông thôn; họ là nhân tố bước
ñầu phá vỡ sụ khép kín của làng xã, là cầu nối giữa nông thôn và các thành thị
kiểu cổ. Vì vậy, trong xu hướng ngày càng tha hóa của các yếu tố thần kỳ,
truyện cổ tích thế sự hay sinh hoạt ñã tự nhiên hướng ñến những loại nhân vật
này như một biện pháp "lạ hóa" trong nghệ thuật biểu hiện. Nhờ ñó, ñề tài xã hội
mà truyện cổ tích chiếm lĩnh giờ ñây cũng ñã rộng hơn hẳn trước, không còn
giới hạn trong câu chuyện một làng, một xóm hay quẩn quanh trong một gia
ñình... Dầu sao, nhìn một cách tổng quát, tưởng tượng trong sáng tác cổ tích vẫn
chưa vượt khỏi hình ảnh một xã hội quân chủ kiểu phương Đông với hệ thống
làng xã dày ñặc làm chân rết cho nó, mà những mối giao lưu hiếm hoi bằng
ñường biển, ñường sông, ñường bộ... hay những cuộc khởi nghĩa, nổi loạn của
nông dân... vẫn chưa làm cho nề nếp sinh hoạt của nó mất vẻ phẳng lặng. Nhìn
vào bề sâu xã hội này cũng ñã có một ít nét ña dạng, và ít nhiều ñã có cá tính.
Ở ñây cái nghèo thì thật là nghèo, nghèo ñến mức cả gia ñình phải thay ñổi
nhau ñộc một manh khố rách (Sự tích ñầm Nhất-dạ và bãi Tự-nhiên, số 28),
nhưng mặt khác, sự phân hóa giàu nghèo cũng chưa ñến nỗi dữ dội, gay gắt, ñẩy
truyện cổ tích ñến những xung ñột nghệ thuật ñi ra ngoài các thủ pháp ước lệ
thường thấy. Sự xa hoa tột bậc trong Nghìn lẻ một ñêm hình như không có ñất
tồn tại trong truyện cổ tích Việt-nam và tính chất khuôn phép của một xã hội