1364
tài gia ñình, làng xã vẫn có số lượng cao hơn so với loại truyện mang ñề tài ñấu
tranh giai cấp và ñấu tranh dân tộc. Vì sao? Có lẽ ñây cũng là một hạn chế tự
nhiên không tránh khỏi, trong ý thức và tầm nhìn của các tác giả dân gian.
Chúng tôi ngờ rằng trong ñời sống nông thôn Việt-nam cổ xưa cho mãi ñến sát
thời cận ñại, sự phân hóa ñẳng cấp vẫn chưa lấy gì làm rõ rệt, và chưa nổi cộm
thành những quan hệ ñối kháng nhức nhối, thu hút sự chú ý của người sáng tác
truyện kể. Cũng vậy, vấn ñề chống xâm lăng hay bảo vệ chủ quyền dân tộc là
một tình cảm thiêng liêng, một nghĩa vụ xã hội ñược nhận thức rất sớm trong các
tầng lớp ñầu lĩnh, hào trưởng, nhưng ñối với quần chúng nông dân, trong ñó các
nghệ sĩ dân gian, tình cảm này vẫn tiềm tàng như một trực cảm tự nhiên và chỉ
ñược nâng cấp dần lên qua các khái niệm cộng ñồng làng xã mà họ từng gắn bó
từ rất lâu ñời. Bởi vậy, dù người dân Việt ngay trong thời Bắc thuộc ñã ñược
hun ñúc khá nhiều về lòng yêu nước, kết tinh lại ở nhiều truyền thuyết, anh hùng
ca..., vẫn có thể phỏng ñoán số lớn loại truyện cổ tích về ñề tài quốc gia xã tắc là
do bàn tay nho sĩ sáng tạo về sau - dưới thời quân chủ ñộc lập (sau năm 938) -
mà dân gian chỉ ñóng vai trò tiếp nhận và lưu truyền, bản tính hồn nhiên của họ
cũng làm cho câu chuyện ñược hiểu một các uyển chuyển chứ không cứng nhắc
(chẳng hạn truyện Lê Lợi, số 99, là muốn nói ñến tinh thần ñùm bọc của nhân
dân ñối với một con người nghĩa khí, cũng như ñối với Chàng Lía (số 64), chứ
không phải là nhân dân sớm nhận ra ở ñây là hình ảnh một vị "chân chúa" như
trong các truyền thuyết khác của nhà nho về Lê Lợi). Hoặc chính dân gian cũng
ñóng góp phần ñiều chỉnh, ñưa thêm vào ñó những chủ ñề mới, làm rõ nét hơn
những nhân tố phù hợp với cảm quan thẩm mỹ của mình. Truyện Mỵ Châu -
Trọng Thủy (số 174) là một bằng chứng cụ thể. Gần ñây chúng ta bàn ñến câu
chuyện này khá nhiều, và nhiều người chỉ muốn gò ép cốt truyện thành một "bài
học cảnh giác với kẻ thù xâm lược". Nhưng xem xét lại văn bản gốc ta sẽ thấy
truyện không phải chỉ ñơn thuần có một lớp nghĩa. Có lớp nghĩa quả hướng về
bài học cảnh giác, ñúng hơn là một kinh nghiệm xử thế ñòi hỏi không bao giờ
ñược sống hời hợt; ñắp thành kiên cố ñể ngăn chặn giặc, có ngờ ñâu giặc lại lọt
vào tận lòng ruột của mình; tìm ñường chạy trốn giặc có ngờ ñâu giặc lại ở ngay
sát sau lưng; ñời cha dốc bao nhiêu xương máu xây dựng nên cơ ñồ thế mà chỉ
một sớm một chiều vì nhẹ dạ, ñời con lại làm cho tan nát... Nhưng cũng không
thể bỏ qua một lớp nghĩa thứ hai, không kém quan trọng, hướng về mối tình của
Mỵ Châu - Trọng Thủy; tình yêu chân thành, ngây thơ và trong trắng nhiều khi
lại là nạn nhân của mọi tranh ñoạt tàn khốc, nhưng chỉ kẻ nào mưu ñồ tranh ñoạt
mới là tội lỗi, còn tình yêu không vụ lợi thì bao giờ cũng ñược ñền bù. Đó là
cách nhìn ñộ lượng của dân gian ñối với tấn bi kịch của Mỵ Châu. Nước giếng
Trọng Thủy làm sáng ngọc trai cũng là một biểu tượng nghệ thuật hoàn hảo mà
chỉ riêng quan ñiểm "xã tắc" của nhà nho không thôi không thể sáng tạo nên
ñược.