1381
Cồn-tàu mất hết linh nghiệm, chỉ còn biết trơ mắt ngồi nhìn dân chúng quanh
vùng tấp nập kéo ñến phá rẫy làm ăn.
Tuy loại truyện mang chủ ñề tôn giáo chiếm số lượng ít, người Việt lại có khá
nhiều truyện dường như là ñể cảnh giới những kẻ tu hành. Thực tế thì ñó là
những truyện thuộc loại hình giáo huấn nói chung, mượn nhân vật tu hành ñể răn
dạy người ñời, ñồng thợi về khách quan, cũng có ñượm một nụ cười châm biếm
ñối với thói giả dối của sư mô, như Sự tích chim tu hú (số 6), Sự tích con nhái
1
(số 10), Sự tích cá he (số 13), Sự tích ông bình vôi (số 22)... Qua tiếng cười dân
gian, chúng ta ñều tìm thấy mối liên kết tư tưởng giữa các truyện này với nhau,
ñó là thái ñộ hoài nghi của người nông dân trước giáo lý ñạo Phật kêu gọi mọi
người tìm vào cõi bất sinh bất diệt.
Một số truyện khác bề ngoài có vẻ lý tưởng hóa tôn giáo, ñề cao triết lý thoát
tục, nhưng từ góc ñộ cái nhìn dân gian, chúng vẫn mang ít nhiều tư tưởng vô
thần khỏe mạnh. Từ Thức (số 130) chẳng hạn, tuy vui sướng ở cõi tiên mà tấm
lòng nhớ quê nhà vẫn nặng trĩu. Tiên Dung (số 28) không dám cự mệnh vua cha
nhưng ñã tự tiện kết hôn với "chàng không khố" mà tuyệt không hề hỏi ý kiến
của cha. "Vật tiền thân" của người nô lệ Mai An Tiêm (số 1) có bóng dáng một
món hàng Phật giáo mới du nhập, kỳ thực lại là một khái niệm hữu hiệu ñể ñối
phó với tư tưởng coi mọi vật ñều là ân huệ của ñấng quân vương, chứ không
phải do sức người làm nên.
Có thể nói thế giới quan trong kho tàng truyện cổ tích Việt-nam nhìn trên tổng
thể là thế giới quan của người nông dân gia trưởng trong cộng ñồng làng xã. Nó
có những mặt lành mạnh, tiến bộ và cả những giới hạn tất yếu, do tính chất tĩnh
và khép kín của sinh hoạt làng xã quy ñịnh. Nhưng cũng chính môi trường làng
xã với không gian thu hẹp ñó là ñiều kiện cho một cách nhìn thế giới với những
cảm quan duy vật thô sơ và tự phát có dịp phát huy ảnh hưởng tự nó, chưa bị gò
vào những hệ thống tôn giáo phức tạp siêu hình, cũng chưa bị hệ tư tưởng chính
thống làm cho lệch lạc, hoặc áp ñặt một cách sống sượng, nặng nề.
4. Cả hai bình diện "quân quyền" và "thần quyền" từ lâu ñã kết thành xương
sống chính của xã hội quân chủ, nâng ñỡ tinh thần cho xã hội ñó tồn tại ở Việt-
1
Cao Huy Đỉnh có lấy truyện Sự tích con nhái so sánh với một mẩu chuyện trong Ma-ha-bha-
ra-ta (Mahabharata) nói về một ñạo sĩ là Vi-sua-mi-tơ-ra (sư phụ của Thích Ca) ñể cho ñó là
truyện của ta Việt hóa truyện tôn giáo và truyện dân gian Ấn-ñộ, "không thay ñổi tư tưởng
chủ ñề tôn giáo mà chỉ ñặt cốt truyện phù hợp với sinh hoạt Phật giáo ở Việt-nam" (Nghiên
cứu văn học, số 5, 1963; tr.41-42). Theo chúng tôi, truyện Sự tích con nhái ñúng là phục vụ
cho ñạo Phật, nó có mục ñích giáo dục tư tưởng cấm dục khắc khổ, nhưng mặt khác, cũng như
Huyền Quang (số 147), Sự tích ñền Cờn (số 161), nó còn giáo dục lòng kiên trì cho con
người; tuy nhiên ở ñây nó cũng ñồng thời cho thấy mãnh lực cám dỗ của thị dục, lòng dục,
một bản tính tự nhiên không dễ dàng vứt bỏ. Khác với ý kiến trên, chúng tôi coi ñó là truyện
dân gian hơn là Phật thoại.