1395
Quả là trong công tác nghiên cứu truyện cổ dân gian, việc phát hiện ra cái
"chung" của loại hình này vẫn chưa phải là ñã tới ñích cuối cùng của nhà nghiên
cứu. Rốt cuộc ñấy cũng chỉ mới là một cái mốc và dầu là một cái mốc rất ñáng
kể ñi nữa, nếu như nhà nghiên cứu thỏa mãn và dừng lại ở ñấy, rồi tuyệt ñối hóa
nó, coi nó là yếu tố chi phối tất cả, chắc hẳn kết luận của họ sẽ phạm phải không
ít sai lầm.
Đành rằng trong những thời kỳ lịch sử xa xăm, trên con ñường phấn ñấu gian
nan của các dân tộc nhằm chống lại những lực lượng trở ngại trong tự nhiên
cũng như trong xã hội ñể tồn tại và phát triển, dân tộc nào mà chẳng trải qua
những bước tiến hóa lịch sử gần như nhau, với những tình cảm, tư tưởng, quan
niệm nhân sinh, ñạo lý ứng xử... có tính nhân loại; nhưng nếu xét về hình thức
biểu hiện của những nhân tố rất gần nhau ấy, thì rõ ràng chúng lại hiện ra dưới
những ñường nét sắc màu hết sức phong phú và ña dạng. Và ñứng ở góc ñộ ñó
mà xét, có dân tộc nào lại giống hệt với dân tộc nào?
Hơn thế nữa, làm gì lại có một dân tộc "thượng ñẳng" nào ñấy, ñược thượng
ñế ban cho một chức năng cao quý là chuyên sáng tác ra vô vàn truyện kể kỳ thú
ñể ban phát cho cả loài người cùng thưởng thức, trong khi ñó thì các dân tộc
khác, trí tuệ, tài năng cũng chẳng phải là kém cỏi, mà lại cứ phải ñóng vai người
"thính giả", hay người "kể chuyện" trung thành? Nói cách khác, tưởng tượng và
mơ ước, suy nghĩ và sáng tạo vốn là những khả năng hầu như vô tận của trí óc
con người nhằm dựng nên một thế giới bằng ngôn ngữ và bằng âm thanh ñể tô
ñiểm cho cái thế giới mà mình ñang sống, ñể bổ sung những chỗ khiếm khuyết
của con người bằng ước mơ, phải ñâu là ñộc quyền riêng của một vài dân tộc!
Và ngay cho dù có một dân tộc nào ñó là có nhiều khả năng hơn những dân tộc
khác trong lĩnh vực sáng tạo nghệ thuật thì trong quá trình sinh hoạt, tiếp xúc và
giao lưu với các dân tộc khác, phải ñâu họ chỉ làm người "chủ ñộng ban phát"
mà không hề tiếp nhận những ảnh hưởng ngược trở lại? Cũng vậy, ñối với dân
tộc "tiếp nhận" cũng phải ñâu trong khi chuyển hóa những vốn liếng của nước
ngoài vào ñiều kiện lịch sử - xã hội của nước mình, dân tộc ñó cứ một mực thụ
ñộng "sao y bản chính", mà không hề cải tạo, gạn lọc, nghĩa là không dám nghĩ
ñến cái công việc sáng tạo lại một lần thứ hai?
Cho nên, ñể có một nhận thức ñầy ñủ về truyện cổ dân gian, thì sau khi ñã
phát hiện ra cái "chung", lại rất cần trở lại với cái "riêng". Đó là hai phương diện
khác nhau cùng làm nên giá trị của loại hình cổ tích, là hai yếu tố nảy sinh từ
những nguồn gốc khác nhau, trong quá trình hình thành, vận ñộng, lưu chuyển
của thể loại tự sự ñó trong phạm vi một nước cũng như rộng ra cả một vùng bao
gồm nhiều nước, nhiều dân tộc.
Và tuy nguồn gốc có khác, tuy vai trò cũng không ñồng nhất, nhưng hai yếu tố
này lại gắn với nhau trong loại hình cổ tích như một chỉnh thể và thường ñược