KHO TÀNG TRUYỆN CỔ TÍCH VIỆT NAM - Trang 1407

1407

Truyện Người lấy ếch (số 129) sơ bộ tìm hiểu có thể kết luận là vay mượn của

cốt truyện Thần ếch xanh 青 蛙 神 trong Liêu trai chí dị 聊 齋 志 異. Như Từ
ñiển thần thoại Trung-quốc
của Uéc-ne (Werner)

1

có nói ñến, người dân Nam

Trung-quốc ñặc biệt có tục sùng bái ñối với loài ếch. Họ lập miếu thờ chúng,
chẳng hạn hiện tượng còn thấy ở các tỉnh Giang-tô, Trấn-giang, v.v... Ở ñây
người ta cầu xin thần ếch xanh phù hộ cho mình buôn bán phát tài và tránh các
bệnh tật... Vì vậy, có thể tin truyện Thần Ếch Xanh 青 蛙 神 trong Liêu trai chí
dị
聊 齋 志 異 bắt nguồn từ một truyện cổ tích dân gian hay ít ra Bồ Tùng Linh
cũng dựa vào tín ngưỡng mà hư cấu nên.

Nhưng truyện của Việt-nam tuy có một số tình tiết tương tự với truyện của

Liêu trai chí dị 聊 齋 志 異 vẫn có cơ sở ñể nghĩ rằng nó cũng thoát thai từ trong
tín ngưỡng của người Việt nếu như truyện ñó không chịu ảnh hưởng trực tiếp từ
một truyện nào khác ngoài truyện của Liêu trai. Hiện nay ở Việt-nam ñã không
còn tục thờ thần ếch, hơn nữa, người Việt-nam lại là dân tộc có tập quán dùng
ếch làm thức ăn. Song từ xưa dân ta vẫn cho loài ếch là vật linh thiêng, biết
trước mưa gió, cũng linh thiêng không kém gì cóc. Ở Nghệ - Tĩnh mãi ñến ngày
nay nông dân vẫn có thói quen xem xương ñùi ếch ñể ñoán trước trời có mưa
hay không, và mưa vào khoảng nào trong tháng. Lại có câu: ''Ếch oa gọi ra mưa
rào"
. Sách Thoái thực ký văn của Trương Quốc Dụng có chép: "Nay tục cho
rằng [năm nào] ếch (ñiền oa) kêu sớm mà tiếng kêu nhộn nhịp thì ñược mùa, kêu
muộn mà thưa thớt thì mất mùa. Lại những con cóc [thiềm thừ] và nhái xanh
[thanh oa] trong những tháng nắng mà [cất tiếng] kêu thì có cái triệu sắp mưa"

2

.

Không những thế, trước chúng ta vào ñầu thế kỷ, Đờ Grút (De Groot) ñã sớm
nói ñến ý nghĩa của ếch nhái ñối với tín ngưỡng của các dân tộc phương Đông,
nó là biểu tượng của sự phồn thực. Điều này còn ñược trống ñồng chứng minh

3

.

Tiếp theo, Pen-li-ô (P. Pelliot) cũng thông báo một nhận xét khi ông dịch quyển
Chân lạp phong thổ ký 眞 臘 風 土 記 ra tiếng Pháp

4

: từ thế kỷ XIII, người Khơ-

me (Khmer) ở phía Nam Đông-dương cũng không có tục bắt ếch nhái làm thức
ăn. Sự việc ñó hẳn có liên quan ít nhiều ñến tín ngưỡng.

1

F. T. C. Werner. A dictionaly of Chinese Mythology, Shanghai, 1932.

2

Chương "Vật loại", trong bản dịch của Nguyễn Lợi và Nguyễn Đổng Chi, Nhà xuất bản Tân

Việt, Hà-nội, 1944.

3

Viết về trống ñống cổ, dẫn trong một bài giới thiệu sách ñăng ở BEFEO, số 2 (1902).

4

Trong một bài giới thiệu sách ñăng ở BEFEO số 2 (1902), tr. 218. Sách Chân-lạp phong thổ

眞 臘 風 土 記 do Chu Đạt Quan 周 達 觀 viết trước năm 1312. Lê Hương ñã dịch ra
quốc ngữ (Kỷ nguyên mới xb, Sài-gòn, 1973), ñoạn văn ấy dịch như sau: "Người bổn xứ
(Khơ-me] không ăn thịt ếch, vì thế về ñêm chúng ra ñầy ñường" (tr. 92-93).

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.