của nền văn minh xưa kia sau thời kỳ cực thịnh: cổ Ai Cập, cổ Hi Lạp, cổ
La Mã, cổ Trung Quốc v.v..
Sang thời Trung cổ, qua hàng trăm năm, xã hội châu Âu trì trệ vì tinh
thần khoa học bị ức chế bởi Nhà thờ. Phải đợi tời thời kỳ Phục hưng (thế kỷ
XVIII), tinh thần khoa học được giải phóng mới thúc đẩy xã hội tiến nên.
Ở thời kỳ phong kiến phương Đông, nhiều nước có xã hội ngưng đọng
hàng ngàn năm cũng do tinh thần khoa học bị kìm hãm bởi giai cấp thống
trị và tôn giáo.
Nhìn chung, ở thời kỳ nào, nơi nào mà khoa học phát triển, tinh thần
khoc học phổ biến rộng rãi, thì mê tín dị đoan giảm hẳn, xã hội hưng thịnh.
Còn ở thời kỳ nào, nơi nào mà tinh thần khoa học sút kém, là lúc đó ở nơi
đó tôn giáo lộng hành, tà thuyết phát triển, bước tiến của xã hội chậm lại.
Có thể nói: tinh thần khoa học là tinh thần hồn nền văn minh của nhân
loại.
Theo nhiều nhà triết học và nhà khoa học, tinh thần khoa học gồm các
đức tính sâu đây:
1. Yêu chân lý và dũng cảm trí tuệ.
2. Trung thực trí tuệ
3. Độc lập trí tuệ.
4. Nghi vấn khoa học.
5. Tin tưởng khoa học.
6. Khiêm tốn và rộng lượng.
7. Tư duy không vụ lợi.