em ông Gorley, dạy học ở trường Power Creek; Wayne Robbins vừa phụ
việc ở nhà thờ, vừa phụ bán ở tiệm Nefzger’s. Cô Leafie kểcó một thanh
niên gốc Anh hành nghề chụp ảnh dạo bằng cách cưỡi ngựa đến các thị trấn
phụcvụ bà con. Còn trang trại của anh ở mãi tận BrockawTôi không dạy
học được, ông Bub Nefzger cũng không thiếu tay phụ bán hang. Còn nữa,
chắc chắn tôi khôngcó máy chụp ảnh. Viễn cảnh tương lai của tôi thật thiểu
não. Tôi nói lớn:
- Thượng Đế ơi, giờ là lúc để Người hành xử bí ẩn đây!
“Ngài” Whiskers giật mình tỉnh giấc. Giả sử có trúng mùa lớn, một mình
tôi cũng không thể tự thu hoạch bốn mươi mẫu đất. Jim Gà Trống bảo dân
trong vùng thường thuê Wayne Robbins hay ông Gorley: Hai người họ có
máy gặt kèm bộ phận buộc lúa thành bó và máy tuốt lúa. Lúc ấy tôi quên
không hỏi giá thuê là bao nhiêu. Lần sau có gặp anh ta, tôi phải hỏi kĩ mới
được. Hình ảnh đồng đô la cứ bay lởn vởn trong óc tôi, làm tôi có thêm
niềm tin và hi vọng.
Tôi uống nốt ly cà phê cuối cùng trong ngày, đọan đứng lên ủi áo quần
cho xong. Đủ tiền hay không đủ tiền, tôi vẫn phải cố giành quyền sở hữu
trang trại của cậu Chester. Một việc không làm không được.
Nhiều thói quen nhỏ dần hình thành trong cuộc sống của tôi lúc nào
không hay. Chase và Mattie “thiết lập” một con đường mòn nhỏ sát nhà tôi.
Mỗi ngày đi học về, hai anh em lại ghé qua nhà tôi trước khi về nhà. Có
khi, chúng chỉ cần nhìn thấy tôi vẫy tay chào cho đỡ nhớ. Tuy nhiên, thỉnh
thoảng chúng dừng lại. Ba chị em lại nói đủ chuyện trên trời dưới đất. Chắc
chắn Chase đã đi nhiều nơi, học hỏi được rất nhiều. Cậu có nhiều ý tưởng
độc đáo, ngay cả người lớn còn không biết, chưa nói gì một cậu bé trai lên
tám. Cậu huấn luyện con Fawn thành thục đến độ Chase chỉ cần tu huýt
như tiếng chim là con bê non đã chạy ngay đến. Tuần trước, Chase làm một
cái bẫy chó hoang khá tinh vi. Sau đó, cậu còn cho tôi xem một cỗ máy
trông rất kì cục: