và tấm vé 12 đô la ở ga Great Northern. Việc thu xếp hành lí không cần
nhiều thời gian. Cậu Holt cho tôi đôi ủng cũ, cô giáo Simpson tặng tôi cuốn
Cẩm nang canh tác của Campbell xuất bản năm 1907. Anh trai cô cũng
chuyển đến Montana. Ông tin chắc đó là cuốn mọi chủ trại cần có khi canh
tác tại miền đồng cỏ phía Đông. Sau cái ôm hôn thắm thiết lúc chia tay, mẹ
Charlie tặng tôi đôi lao động bằng vải bạt dày dặn. Món đồ cuối cùng tôi
mua là chiếc lồng đan bằng cây liễu gai dành cho “Ngài” Whiskers.
Vì vẫn còn tức tối về chuyện vừa xảy đến, mợ Ivy từ chối không ra ga
tiễn tôi. Chỉ có cậu Holt đưa tôi đi trên chiếc Ford Town Car mới cáu.
Khi bỏ rương của tôi từ xe xuống và trao chiếc lồng có “Ngài” Whiskers
cho tôi, cậu Holt bảo:
- Hattie này, cậu biết cháu đủ bản lĩnh và nghị lực làm mọi điều mình
muốn. Nhưng hãy nhớ trên đời có nhiều cách học hỏi. Đừng quá kiêu hãnh
đến độ không cần nhờ ai giúp. Chắc cháu còn nhớ lời mợ Ivy thường hay
nhắc đi nhắc lại là: Trèo cao…
Tôi tiếp lời:
- Ngã đau.
Mợ Ivy thường lo âu phiền muộn vì lòng tự hào của tôi. Bao cây roi gãy
trong tay mợ chỉ để trị tiệt nọc cho tôi cái “thói xấu” ấy.
Cậu Holt vờ như bận rộn nhồi thuốc vào tẩu để lẩn tránh ánh mắt buồn
trong cảnh chia ly. Khi cậu châm thuốc, tôi thấy mắt ông ươn ướt.
Ba năm với bao lần cậu tỏ chút từ tâm với tôi chợt hiện về. Ánh mắt hai
cậu cháu gặp nhau, tôi biết dù không nói ra nhưng cậu hiểu tình cảm của tôi
lúc này. Tôi lắp bắp: