vẻ thật thà lắm. Tôi không biết nên suy nghĩ thế nào cho phải.
Suốt dọc đường, cô Leafie trò chuyện không ngớt nên tôi không cần nói
nhiều. Tâm trí tôi quay cuồng với bao chuyện mắt thấy tai nghe trên thị
trấn. Tr tôi vẫn biết ơn cậu Chester tích lũy đủ loại nguyên liệu làm hàng
rào. Chỉ có điều, cậu quên chi tiết nhỏ: trả tiền mua chúng. Nếu còn hậm
hực sau quá nhiều điều cậu làm vì mình, chắc chắn tôi là người chẳng ra gì.
Nhưng giấy nợ kia khiến tôi bàng hoàng, cay đắng. Đến bao giờ nỗi lo cơm
áo gạo tiền mới buông tha tôi đây?
Mải suy nghĩ mông lung, tôi không nhớ hai cô cháu tôi chia tay ra sao.
Sau khi mỗi người đi một ngả, tôi chìm vào dòng suy tưởng. Về tới sân nhà
mình, tôi mới như người tỉnh giấc chiêm bao. Chú mèo cưng nằm trên
ngưỡng cửa chờ tôi, ngay cạnh mấy cây hoa hướng dương tôi trồng trong
hộp thiếc lúc trước đựng cà phê. Những suy nghĩ về Traft cứ bám nhằng
nhẵng vào trí não tôi. Liệu anh có đáng tin không nhỉ? Phải chăng chiến
tranh dung dưỡng thói hay cay cú của Traft, khiến tính cách Traft trở nên
méo mó, vặn vẹo như thân cây hướng dương vặn mình hứng ánh nắng mặt
trời? Tôi cúi đầu gãi tai “Ngài” Whiskers:
- Chắc loài mèo không phức tạp bằng loài người đâu nhỉ?
Chú mèo cưng kêu meo meo tán thành.
Sau biến cố xe đạp một tuần, Jim Gà Trống vẫn chưa ghé nhà tôi. Trong
khi chờ đợi, tôi đã kịp làm xong hàng rào. Thật khó tin! Hàng rào tưởng
chừng dài vô tận ấy đã xong. Tôi đã hoàn thành xuất sắc một yêu cầu chính
trong thủ tục chứng minh quyền sử dụng đất. Tôi viết thư cho Charlie:
“Không biết sân bay lớn nhất của anh rộng chừng nào, nhưng em dám
chắc hàng rào của em đủ vây quanh vài sân bay như thế”. Tôi khum tay
ngang trán che nắng, ngắm không chán mắt công trình do chính tay mình
tạo nên. Tôi cảm thấy rất mừng và hạnh phúc. Tôi lẩm bẩm những lời chỉ