Dù hầu hết mọi đồ dùng tôi đều đem bán đấu giá, nhưng tôi vẫn dành tặng
ngựa Plug cho bé Elmer Ken Jr.
Tôi không muốn bất cứ ai tiễn tôi ngoài sân ga. Khi tôi đến chỉ có một
mình nên khi đi tôi cũng muốn thế. Yên vị trong àu rồi, tôi bất giác mỉm
cười. Đồng hành với tôi không gì khác hơn cặp bài trùng đi cùng tôi từ
Arlington đến Montana này: Đó là con đường gập ghềnh cùng vài bộ quần
áo củ. Nhưng giờ đây, cả hai đều thân thương, quyến luyến biết bao. Còn
nữa, tôi phải thú nhận rằng, ông béo trên tàu đêm ấy nói đúng. Miền Đông
Montana hứa hẹn quá nhiều. Dù đã dâng hiến hết những gì mình có, đất
Montana vẫn không thể là chỗ dựa cho quá nhiều người đổ xô về đây lập
nghiệp. Dân quê mùa cục mịch! Ông ta gọi những người nhận đất công như
chúng tôi như thế, và quả đúng: Chúng tôi quả chất phác thật.
Con tàu rùng mình chuyển bánh. Một lá thư gấp nếp trong túi áo tôi. Tôi
gần như thuộc làu thư ấy: “Công ty Boeing Airplane đang cẩn thợ máy, còn
anh tình cờ quen một tay thợ cừ: chính là anh! (Charlie viết) Biết đâu,
Seattle sẽ là đích đến của cả hai ta.”
Tôi nhắm mắt, tựa đầu vào lưng ghế. Mới một năm mà có biết bao
chuyện vật đổi sao dời. Giờ tôi trên đoàn tàu đang hướng tới Great Falls.
Sau đó Great Falls là đâu, tôi chưa biết. Tôi muốn tiếp tục viết lách. Thư
gần nhất chị Perilee có kể: Tờ Thời Báo Seattle đã có một phóng viên nữ.
Biết đâu tòa soạn ấy đủ chỗ cho hai nữ nhà báo.
Con tàu lắc lư khi lăn bánh trên đoạn đường ray không bằng phang. Cú
lắc mạnh khiến tôi tỉnh cơn mộng giữa ban ngày. Ngoài kia, bầu trời
Montana trải rộng đến vô cùng. Nghĩ cho thấu đáo thì Montana có giữ lời
hứa đấy chứ. Một năm sống với vùng đồng cỏ này, tôi đã có bao tình cảm
ấm áp, thân thương, hệt như được sống trong một mái ấm thực sự. Tình
cảm hòa vào dòng máu nóng đang chảy trong huyết quản tôi. Tình cảm còn
mãi trong trái tim những người tôi đã gặp.