mình đã nhiều lần suy nghĩ mà không kiếm được giải pháp.
Rốt cuộc ông ta cũng bảo rằng:
- Tôi cũng đã thường nghĩ tới những vấn đề quan trọng đó.
- Dạ.
- Và tôi cũng đã nghĩ cách phải làm sao.
- Dạ.
- Cho nên tôi mừng rằng Umfundisi cũng đã nghĩ đến như tôi.
Viên Tù trưởng lại làm thinh và Kumalo thấy rằng ông ta đương tìm tiếng.
- Umfundisi biết chứ, từ lâu chúng ta đã dạy những điều đó ở trường học.
Quan thanh tra da trắng và bản chức đã nhiều lần bàn về vấn đề đó.
- Bẩm Inkosi, tôi được biết vậy.
- Quan thanh tra sắp trở lại đây, chúng tôi sẽ bàn lại.
Viên Tù trưởng có giọng hy vọng và lạc quan như thể chính câu cuối đó
đưa ra một giải pháp thỏa mãn. Kumalo biết rằng cuộc hội kiến tới đây sắp
chấm dứt, và mặc dầu biết rằng như vậy là không phải, ông cũng gom hết
can đảm lại, cất giọng lên thưa.
- Bẩm Inkosi.
Để tỏ ý rằng muốn nói gì thêm nữa.
- Chi vậy?
- Bẩm Inkosi, quả thực trường đã dạy những điều đó từ mấy năm nay.
Nhưng chỗ người ta dạy đó, coi mà thấy buồn. Không có cỏ, cũng không có
nước. Và ngay khi trời mưa thì bắp cũng không cao tới đầu người. Bò chết
lần chết mòn ngay trên đồng và người ta không có sữa uống. Đứa con của
Malusi đã chết, đứa con của Kuluse cũng sắp chết. Còn bao nhiêu kẻ sẽ
phải chết nữa, chỉ Tixo mới biết được.
Kumalo nhận thấy rằng mình mới thốt những lời tàn nhẫn, chua chát làm
tiêu tan cả hy vọng và lạc quan, như vậy hậu quả không thể tốt đẹp được.
Viên Tù trưởng có thể nổi giận được lắm không phải vì lời của Kumalo
đúng, mà vì Kumalo không muốn cho câu chuyện chấm dứt ở đó.
- Umfundis, trời hạn hán mà. Đừng quên rằng trời hạn hán chứ.
Kumalo cung kính đáp:
- Bẩm, tôi không quên rằng trời hạn hán. Nhưng hạn hán hay không thì