V
H
ai tháng sau cái chết của cha mình (tháng Giêng, 1979), cuộc hôn nhân
của A. tan vỡ. Những trục trặc đã ủ bệnh được một thời gian, và cuối cùng
thì đi đến quyết định là ly thân. Nếu có một điều lý giải để anh chấp nhận sự
chia ly này, để đau khổ và để thấu hiểu thì đó là tính quy luật không tránh
khỏi, là một điều lớn lao khác mà anh phải nuốt trôi là hệ quả mà nó kéo
theo: phải xa rời đứa con trai. Ý nghĩ về điều đó thật không thể chịu đựng
nổi với anh.
Anh chuyển vào căn phòng của mình trên phố Varick ngày đầu xuân.
Trong vài tháng tiếp theo anh chạy đi chạy lại giữa căn phòng và ngôi nhà ở
quận Dutchess nơi anh và vợ từng sống suốt ba năm vừa qua. Suốt tuần: cô
đơn ở thành phố; cuối tuần: viếng thăm vùng nông thôn, cách đó trăm dặm,
nơi anh ngủ ở chốn vốn từng là phòng làm việc của mình và chơi với con
trai, chưa đầy hai tuổi, và đọc cho nó nghe những câu chuyện từ các cuốn
sách quý giá của thời kỳ ấy: Đi nào các bác xe, Mũ để bán, Mẹ ngỗng.
Không bao lâu sau khi anh chuyển vào căn phòng ở phố Varick, cậu bé
Etan Patz sáu tuổi biến mất khỏi nhà ở cùng khu dân cư. Ở ngã rẽ nào A.
bước tới cũng có một tấm hình của cậu bé (trên cột điện, cửa sổ các cửa
hàng, các bức tường trống), đề những chữ: CON MẤT TÍCH. Bởi khuôn
mặt của đứa trẻ ấy không quá mức khác biệt so với khuôn mặt cậu bé con
của chính anh (và thậm chí có khác đi chăng nữa thì cũng vậy mà thôi), mỗi
lần nhìn thấy tấm ảnh chụp khuôn mặt đó anh lại nghĩ đến con trai mình – và
với chính xác định nghĩa ấy: con mất tích. Một buổi sáng nọ, Etan Patz được
mẹ bảo đi xuống lầu dưới để đợi xe bus đến trường (đây là ngày đầu tiên sau
một đợt đình công kéo dài của các tài xế xe bus và cậu bé hăm hở muốn
được tự làm việc nho nhỏ ấy, coi đó là một hành động sơ khởi cho sự độc
lập), và rồi không bao giờ xuất hiện nữa. Cho dù điều gì đã xảy ra với cậu,
thì nó cũng đã xảy ra mà chẳng để lại dấu vết nào. Cậu có thể đã bị bắt cóc,