cậu có thể đã bị giết, hoặc có thể cậu đơn giản là đi lang thang và bỏ mạng ở
một nơi nào đó không ai nhìn thấy. Điều duy nhất mà người ta có thể chắc
chắn là cậu bé đã biến mất – như thể tan vào bề mặt trái đất. Báo chí rùm
beng lên vì câu chuyện này (phỏng vấn cha mẹ, phỏng vấn các thám tử được
giao vụ này, những bài báo về tính cách của cậu bé: cậu thích chơi trò gì, cậu
thích ăn món gì), và A. bắt dầu nhận ra sự hiện diện của thảm kịch ấy –
chồng xếp lên một thảm kịch khác bé nhỏ hơn buộc phải thừa nhận của
chính anh – là không thể thoát khỏi. Mỗi thứ rơi xuống trước mắt anh dường
như không có gì khác hơn một hình ảnh có sẵn trong tâm trí anh. Nhiều
ngày trôi qua, và mỗi ngày một chút nỗi đau đớn trong anh được kéo lộ ra
ngoài. Cảm giác về mất mát tóm lấy anh, và nó không chịu buông anh ra. Có
những lúc sự mất mát ấy trở nên quá lớn, và quá ngột ngạt, đến mức anh
nghĩ nó sẽ không bao giờ buông anh ra.
* * *
Vài tuần sau, vào đầu mùa hè. Một tháng Sáu New York rực rỡ: ánh sáng
rõ ràng rọi xuống những viên gạch; bầu trời xanh, trong suốt, chính là thứ
màu xanh ngắt thậm chí có thể quyến rũ cả Mallarmé.
Ông của A. (về đằng mẹ) dần dần đi về phía cái chết. Chỉ một năm trước
ông vẫn diễn ảo thuật trong bữa tiệc sinh nhật đầu tiên của con trai A.,
nhưng giờ, ở tuổi tám mươi lăm, ông trở nên yếu đến nỗi không thể đứng
dậy nếu không có người đỡ, không thể di chuyển mà không cần tới một nỗ
lực căng thẳng đến mức chỉ nghĩ về việc di chuyển thôi cũng khiến ông kiệt
sức. Có một cuộc họp gia đình trong văn phòng bác sĩ, và kết luận là đưa
ông tới bệnh viện của vị bác sĩ tại Đại lộ East End và phố Tám mươi tám
(chính là bệnh viện mà vợ ông đã qua đời vì bệnh xơ cứng teo cơ một bên –
bệnh của Lou Gehrig – mười một năm trước đó). A. có mặt tại cuộc họp gia
đình ấy, giống mẹ anh và chị gái của mẹ anh, hai người con của ông ngoại.
Vì không người nào có thể ở lại New York, cả nhà thỏa thuận là A. sẽ chịu
mọi trách nhiệm. Mẹ A. quay lại nhà ở California để chăm sóc cho ông