Chuông điện thoại đổ hai chục lần mỗi ngày, và cũng hai chục lần tôi phải
nói cho ai đó nghe rằng cha tôi đã chết. Tôi nghiễm nhiên trở thành tay buôn
nội thất, thợ vận chuyển, người báo tin dữ.
* * *
Tòa nhà bắt đầu biến hình thành sân khấu cho một vở hài kịch nhàm chán
về thói đời. Họ hàng chạy vù vào, hỏi xin món đồ này, bộ đồ bếp kia, thử áo
vét của cha, lục tung thùng hộp, bàn bạc om sòm như bầy ngỗng. Hội bán
đấu giá đến định giá các món hàng (“Chẳng có gì được phủ bọc, chẳng đáng
một xu nữa rồi”), hỉnh mũi lên, và bước ra. Đám dọn dẹp rầm rập tiến vào
trong đôi ủng nặng nề và lôi đi cả núi rác. Ông quản lý nước đến đọc đồng
hồ nước, ông quản lý ga đến đọc đồng hồ ga, ông quản lý dầu đến đọc máy
đo dầu. (Một trong số họ, tôi quên mất là ai rồi, kẻ đã bị cha tôi gây ra khối
phiền hà rắc rối suốt nhiều năm, nói với tôi trong bộ dạng đồng lõa trắng
trợn, “Tôi không thích phải nói điều này” – nghĩa là ông ta thích – “nhưng
cha anh là một lão khốn kiếp đáng ghê tởm.”) Người môi giới nhà đất đến
để mua lại vài món nội thất cho chủ mới và rốt cuộc thì lấy được một cái
gương cho bản thân. Một bà chủ tiệm đồ cổ mua lại mấy chiếc mũ cũ của
mẹ tôi. Một gã đồng nát đến với đội tay sai (bốn người da đen tên là Luther,
Ulysses, Tommy Pride, và Joe Sapp) và chất lên xe đẩy tất cả mọi thứ từ bộ
tạ thể hình cho đến cái lò nướng bánh mì hỏng. Khi đã xếp đặt xong, chẳng
còn gì sót lại. Thậm chí không có một tấm bưu ảnh. Thậm chí không một ý
nghĩ.
Nếu phải nói đến khoảnh khắc tồi tệ nhất đối với tôi trong những ngày ấy
thì đó là khi tôi bước qua bãi cỏ trước nhà trong cơn mưa như trút để tống
một ôm đầy cà-vạt của cha vào phía sau chiếc xe Hội Từ Thiện. Phải có đến
hơn một trăm chiếc cà-vạt, và nhiều cái tôi thấy từ thuở thơ ấu: hoa văn,
màu sắc, kiểu dáng đã hằn sâu những nhận thức đầu đời, rõ ràng như khuôn
mặt của cha vậy. Nhìn thấy bản thân mình quẳng chúng đi chẳng khác gì
một đống rác quả là một điều vượt quá mức chịu đựng, và đúng là như thế,