món nội thất được đánh bóng loáng, nghĩ về một nghìn bảy trăm bài thơ đã
được viết ở đó, cố gắng nghĩ về chúng như một phần của bốn bức tường kia,
và thất bại trong nỗ lực ấy. Nếu từ ngữ luôn luôn tồn tại trong thế giới, anh
nghĩ, thì thậm chí nếu không có thế giới nào để bước vào, thế giới đã có sẵn
ở đó, trong căn phòng ấy, điều ấy có nghĩa là căn phòng đã xuất hiện trong
các bài thơ chứ không phải là ngược lại. Giờ đây anh đọc, trên trang cuối
của cuốn sổ, trong đoạn phát biểu kỳ quặc của một người viết vô danh:
“Trong căn phòng ngủ kiêm phòng làm việc này, Emily đã thông báo rằng
linh hồn có thể nhập vào cộng đồng riêng của nó. Nhưng bà nhận ra rằng ý
thức vừa là giới hạn vừa là tự do, vì thế thậm chí ở đây bà chính là con mồi
của sự tự cầm tù trong nỗi tuyệt vọng hay sợ hãi… Với những vị khách nhạy
cảm, căn phòng của Emily chứa đựng một bầu không khí dồn nén nhiều
trạng thái xúc cảm của nữ thi sĩ bao gồm cả sự chế ngự, căng thẳng, giận dữ,
thoái lui hay tràn đầy cảm hứng. Có thể nhiều hơn bất cứ chốn di tích nào
của nền văn học Mỹ, nơi đây biến sự lao động cần cù trong thế giới nội tại
vốn là thói quen của dân tộc, thu nhỏ trong Emily, trở thành biểu tượng.”
* * *
Bài hát đi cùng với Sách của Ký ức, Solitude, do Billie Holiday hát. Trong
bản thu ngày 9 tháng Năm, 1941 của Billie Holiday và dàn đồng ca của bà.
Thời gian trình diễn: ba phút mười lăm giây. Như sau: Trong nỗi cô độc của
em anh ám ảnh/ Với sự mơ màng của những ngày trôi qua./ Trong nỗi cô
độc của em anh mỉa mai chế giễu/ Với những ký ức không bao giờ chết…
Với tên tác giả ghi là D. Ellington, E. De Lange và I. Mills.
* * *
Phép ẩn dụ đầu tiên về giọng nói của phụ nữ. Được tiếp nối bởi sự liên hệ
với nhiều kẻ khác.