mặt cậu phủ ngập trong nỗi niềm sợ hãi và thích thú, liến thoắng đưa ra các
câu hỏi với cha, cố gắng thấu nhận những gì cậu vừa thấy, phân vân, cố gắng
thấu nhận thêm lần nữa, phân vân. Cuối bộ phim, thì mọi chuyện trở nên hơi
quá mức với cậu. “Nhiều bom nổ quá,” cậu thốt lên. Cha cậu hỏi cậu có
muốn ra ngoài không, và cậu bảo có. A. bèn bế cậu lên và đưa cậu ra khỏi
rạp chiếu – bước vào một cơn bão điên cuồng. Khi họ chạy về phía chiếc xe,
cậu bé bảo (nhấp nha nhấp nhổm trong vào tay A.), “Tối nay chúng ta phiêu
lưu ra trò, cha nhỉ?”
Suốt phần còn lại của mùa hè, siêu nhân là niềm đam mê, ám ảnh của cậu
bé, là mục đích xuyên suốt của đời cậu. Cậu từ chối mặc mọi chiếc áo ngoài
chiếc áo màu xanh có chữ S in đằng trước. Mẹ cậu may cho cậu một chiếc
mũ, và mỗi lần cậu đi ra ngoài, cậu sẽ đòi đội nó, chạy xuống phố với hai
tay duỗi ra phía trước, như thể đang bay, chỉ dừng lại để thông báo với từng
vị khách dưới mười tuổi tình cờ bước qua đường rằng: “Ta là siêu nhân
đây!” A. cảm thấy rất buồn cười với tất cả những việc ấy, vì anh có thể nhớ
lại những điều y hệt từ tuổi thơ của chính mình. Không phải sự ám ảnh ấy
làm anh kinh ngạc; cũng không phải là sự tình cờ quen biết với người đàn
ông đã làm ra bộ phim tạo nên sự ám ảnh ấy. Thực ra đó là chuyện này. Mỗi
lần anh thấy con trai mình đóng giả siêu nhân, anh không thể nào ngừng
nghĩ về người bạn tên S., như thể chữ S trên chiếc áo phông của con trai anh
không phải viết tắt cho Superman mà cho tên của bạn anh. Và anh vẫn tự hỏi
về trò tráo trở mà tâm trí không ngừng trêu đùa anh, sự bất thình lình chuyển
từ điều này sang một điều khác, như thể đằng sau mỗi điều có thật này lại có
một điều khác ẩn bóng, tồn tại trong tâm trí anh, sống động không khác gì
những thứ trước mắt anh, và rốt cuộc anh thấy lạc lối trong việc phân biệt
anh thực sự đang nhìn thấy điều gì. Và vì thế, lúc chuyện ấy xảy ra, xảy ra
thường xuyên, thì đời anh không còn neo ở hiện tại nữa.