Anh thậm chí có thể lấy làm chắc chắn về điều ấy, chỉ ra những sự kiện và
cách phản ứng của anh trước chúng qua các địa điểm và thời gian (chính xác
cả địa điểm và thời gian: năm, tháng, ngày, thậm chí cả giờ). Tuy nhiên, điều
quan trọng không hẳn là trình tự qua thời gian mà là hệ quả của nó, sự vĩnh
cửu trong không gian của ký ức. Vì thế, để ghi nhớ, một ngày tháng Tư khi
anh mười sáu tuổi, bỏ học cùng một cô bé anh đem lòng mến yêu: thật say
đắm và vô vọng đến nỗi ý nghĩ về nó vẫn còn nhức nhối. Để nhớ lại con tàu,
và rồi chuyến phà tới New York (con phà ấy, giờ đã biến mất từ lâu: được
đúc bằng thép, tỏa khói ấm, đã hoen rỉ), và rồi tới dự một buổi triển lãm lớn
giới thiệu các bức họa của Van Gogh. Để nhớ lại rằng anh đã đứng đó như
thế nào, run lên vì hạnh phúc, như thể việc ngắm nhìn các tác phẩm ấy đã
nhập chung vào sự tồn tại của cô gái, đã biến mất đầy bí ẩn trong tình yêu
anh dành cho cô.
Vài ngày sau đó, anh bắt đầu viết một chùm thơ (giờ đã mất hết) dựa trên
những bức tranh anh được thấy, mỗi bài thơ lại có tên của một bức họa do
Van Gogh vẽ. Đó là những bài thơ thực sự mà anh từng viết. Còn hơn là một
cách để bước vào thế giới của các bức tranh, những bài thơ là nỗ lực để ghi
dấu lại ký ức của ngày hôm ấy. Tuy nhiên, nhiều năm trôi qua thì anh mới
nhận ra được chuyện này. Chỉ tới lúc ở Amsterdam, khi nghiên cứu lại
những bức tranh mà anh từng thấy cùng cô bé (nhìn lại chúng lần đầu tiên kể
từ lúc đó – gần nửa cuộc đời anh đã trôi qua), thì anh mới nhớ tới việc đã
viết ra những bài thơ ấy. Vào đúng lúc ấy cán cân mới hiện lên rõ ràng với
anh: hành động viết cũng là hành động ghi nhớ. Trên thực tế thì, ngoài chính
các bài thơ ấy, anh đã không quên bất cứ điều gì.
* * *
Đứng trong Bảo tàng Van Gogh ở Amsterdam (tháng Mười Hai, 1979)
trước bức tranh Căn phòng ngủ,được hoàn thành tại Arles, tháng Mười,
1888.