* * *
Đôi khi tôi lại nghĩ về chuyện ấy: Chuyện tôi đã được tạo mầm tại khu
nghỉ dưỡng dành cho những kẻ đi hưởng tuần trăng mật ở thác Niagara như
thế nào. Chuyện ấy xảy ra ở đâu không hẳn là quan trọng. Nhưng ý nghĩ về
chuyện vòng tay ôm trống rỗng đam mê, màn rờ rẫm giữa những lớp chăn
lạnh giá của khách sạn không bao giờ thất bại trong việc khiến tôi thấy nhục
nhã về sự tồn tại không được mong đợi của mình.
Già tám tháng sau đó, vào buổi sáng ngày sinh nhật thứ hai mươi hai, mẹ
tôi tỉnh dậy và bảo với cha rằng em bé đòi ra đời rồi. Kỳ quặc, cha bảo, đứa
trẻ sẽ không ra đời trong vòng ba tuần nữa đâu – và thản nhiên đi làm, bỏ
mặc mẹ ở nhà mà không có lấy một chiếc xe.
Mẹ đợi. Nghĩ rằng cha đã nói đúng. Mẹ đợi thêm chút nữa, rồi gọi điện
thoại cho chị chồng nhờ bà chở tới bệnh viện. Bác tôi ở với mẹ hết cả ngày,
cứ mấy tiếng lại gọi cha một lần để giục ông đến. Để sau đi, ông đáp, em
đang bận, em sẽ đến khi nào có thể.
Quá nửa đêm một chút thì tôi tìm được cách bước ra thế giới, mông ra
trước, khóc váng lên không cần thắc mắc.
Mẹ đợi cha xuất hiện, nhưng mãi tới sáng hôm sau cha mới xuất hiện –
tháp tùng mẹ của ông, người muốn xem xét đứa cháu thứ bảy. Đó là một
chuyến ghé thăm ngắn ngủi, căng thẳng, rồi cha lại cuốn gói đi làm.
Mẹ khóc, tất nhiên rồi. Dù gì đi nữa, mẹ vẫn còn trẻ, và mẹ không muốn
mình có quá ít ý nghĩa với cha như vậy. Nhưng cha chẳng bao giờ có thể
hiểu được điều ấy. Chẳng thể từ lúc bắt đầu, và cũng chẳng thể vào khi kết
thúc. Việc thực sự có mặt ở nơi cha đang đứng là một điều bất khả. Trong
suốt cả quãng đời cha sống, ông ở một nơi nào đó khác, lưng chừng giữa ở
đây và ở kia. Nhưng chẳng bao giờ thực sự ở đây. Và cũng chẳng bao giờ là
thực sự ở kia.
* * *