cách kỳ cục, thoăn thoắt trên hai nửa bàn chân trước, như thể cha sắp lao
thẳng về phía trước, mù quáng, vào một thứ gì chưa rõ. Hoặc cách cha vục
đầu xuống bàn khi ăn, vai cha căng lên, lúc nào cũng chỉ tập trung vào việc
ngốn ngấu, chẳng bao giờ thưởng thức. Hoặc mùi bốc ra từ những cái xe cha
dùng để đi làm: dầu rỉ, khói thải; tiếng leng keng của những dụng cụ kim
loại cha sử dụng; tiếng rột roạt không ngừng khi chiếc xe di chuyển. Ký ức
về một ngày tôi cùng cha lái xe ngang khu trung tâm Newark, chỉ chưa quá
sáu năm trước, ông giộng chân trên bàn phanh, việc phanh gấp khiến tôi đập
đầu vào bàn điều khiển: sự đột ngột của một đám người da đen bu lại quanh
xe xem tôi có bị làm sao không, đặc biệt là người phụ nữ dúi một que kem
va-ni cho tôi qua ô cửa sổ đang mở, và cách tôi nói, “không, cảm ơn bà,” rất
nhã nhặn, quá bàng hoàng với việc biết mình thực sự muốn gì. Hoặc một
ngày khác trong một chiếc xe khác, vài năm sau đó, khi cha tôi khạc ra
ngoài cửa xe mà không nhận ra kính chưa được hạ, và sự hứng khởi kỳ
quặc, vô biên của tôi khi thấy bãi nước miếng chảy thành dòng trên mặt
kính. Và nữa, tôi nhớ chuyện khi còn bé, cha đôi khi lại dẫn tôi đi cùng tới
mấy nhà hàng Do Thái ở những khu dân cư mà tôi chưa từng thấy, những
nơi u tối toàn là người già, mỗi bàn lại được chiêu đãi một chai nước khoáng
bé xíu, và chuyện tôi mau chóng thấy buồn nôn, để lại nguyên đĩa thức ăn,
rồi co ro nhìn cha ngốn ngấu hết súp củ cải đường, bánh nhân gan gà, và thịt
luộc cuốn rau cải như thế nào. Tôi, kẻ được nuôi lớn như một cậu bé Mỹ, kẻ
biết về tổ tiên của mình còn ít hơn biết về chiếc mũ của Hopalong Cassidy
Hoặc chuyện, khi tôi mười hai hay mười ba, tôi thèm đến chết được đi đâu
đó với vài người bạn, tôi gọi cho cha ở sở làm để xin phép, và cha nói lại tôi,
với một giọng luống cuống, không biết nên đáp lại ra sao, “Các con chỉ là
một lũ nhóc,” và rồi, nhiều năm sau đó, bạn bè và tôi (một trong số họ giờ
đã chết vì quá liều heroin) thường nhắc lại những lời đó như một mẩu
chuyện dân gian, một chuyện cười đầy hoài niệm.
* * *