thịt, giày là giày, bút là bút. Chẳng quan trọng gì chuyện bạn có thể chọn
giữa đồ ăn thừa và bít-tết hảo hạng, rằng có loại bút bi dùng xong quẳng đi
giá ba mươi chín xu và cái bút mực năm mươi đô-la có thể dùng cả hai chục
năm. Thứ đồ thực sự cao cấp gần như chỉ để bị ghét cay ghét đắng: nó có
nghĩa là bạn phải trả đến một mức giá phóng đại, và chuyện ấy nghe thật phi
đạo đức. Ở một mức độ phổ biến hơn, lối sống này tự chuyển vào một trạng
thái khiếm khuyết giác quan vĩnh viễn: bằng cách nhắm tịt mắt, cha ngăn
cản bản thân tiếp xúc gần gụi với hình dáng và chất liệu của thế giới, loại
mình ra khỏi cơ hội được trải nghiệm khoái cảm trước cái đẹp. Thế giới mà
ông hướng tới là một chốn thực dụng. Mỗi thứ có một giá trị và một giá tiền,
và vấn đề là bạn phải kiếm được những thứ bạn cần với mức giá càng gần
khít với giá trị của nó càng tốt. Từng thứ phải chỉ được tìm hiểu vấn đề chức
năng của nó, được đánh giá chỉ ở chuyện nó trị giá bao nhiêu, không bao giờ
được đánh giá như một vật thể chứa đựng những thuộc tính đặc biệt của
riêng nó. Theo một cách nào đó, tôi tưởng tượng rằng thói ấy đã biến thế
giới thành một chốn mờ nhạt trong mắt cha. Đóng đồng phục, không màu,
không có chiều sâu. Nếu bạn chỉ nhìn vào thế giới ở mặt tiền bạc, cuối cùng
bạn sẽ chẳng hề nhìn thấy thế giới.
* * *
Thời còn bé, đã có lúc tôi thực sự thấy xấu hổ vì cha giữa chốn công
cộng. Lảu bảu với mấy người trông coi cửa hàng, nổi đóa vì mức giá cao,
cãi cọ như thể sự tồn tại của ông đang lâm nguy. Ký ức không thể lẫn đi đâu
được về cảm giác mọi thứ vón cục lại trong lòng tôi, về chuyện muốn thà ở
bất cứ nơi đâu trên thế giới này trừ chính nơi tôi đang đứng. Riêng một lần
đi mua găng tay bóng chày với cha là đặc biệt nhất. Trong suốt hai tuần,
ngày nào tôi cũng tới cửa hàng sau trường để ngắm nghía chiếc găng tôi
thích. Rồi, khi cha dẫn tôi tới cửa hàng ấy để mua nó, cha nổi trận lôi đình
trước người bán hàng đến mức tôi e cha sắp xé ông ấy ra thành từng mảnh.
Khiếp sợ, chán nản cùng cực, tôi bảo cha khỏi bận tâm, rằng tôi chẳng hề