sao. Mỗi khi chuyện ấy xảy ra, tôi lại ngắt lời và chỉnh lại thông tin của hắn.
Ngày hôm sau, khi cáo phó xuất hiện trên mặt báo, nhiều chi tiết không thật
ấy vẫn được in ra.
Ba ngày trước khi qua đời, cha tôi đã mua một chiếc xe mới. Cha đã lái
nó một lần, có thể là hai, và khi tôi quay lại nhà sau lễ tang, tôi thấy nó ngự
trong ga-ra, không còn hoạt động, như một sinh vật khổng lồ chết non. Sau
đó, cũng ngày hôm ấy, tôi một mình ra chỗ ga-ra vài lần. Tôi ngồi sau tay lái
xe, hít thở thứ mùi công nghiệp mới tinh của nó. Bảng đo cự li đã chạy chỉ
sáu mươi bảy dặm. Đó tình cờ thay cũng là tuổi của cha: sáu mươi bảy năm.
Sự ngắn ngủi ấy làm tôi muốn ốm. Như thể đó là khoảng cách giữa sự sống
và cái chết. Một hành trình ngắn ngủi, còn không bằng một chuyến đi sang
thành phố bên cạnh.
* * *
Nỗi ân hận lớn nhất: Tôi không được trao cho cơ hội nào để nhìn thấy cha
sau khi ông chết. Tôi cứ ngu ngốc tưởng rằng quan tài sẽ được mở nắp trong
lễ tang, và rồi, khi nó không được mở thì đã quá muộn để làm bất cứ điều gì.
Chuyện không bao giờ được nhìn thấy ông khi đã chết đẩy tôi vào nỗi đau
đớn mà tôi chẳng hề chờ đón. Không phải vì chuyện cái chết của ông trở nên
ít thực hơn tí chút, mà vì giờ, mỗi khi tôi muốn nhìn thấy chuyện ấy, mỗi khi
tôi muốn sờ được vào sự thực của nó, tôi lại phải bắt đầu tưởng tượng.
Chẳng có gì để nhớ. Chẳng có gì ngoài sự trống rỗng.
Khi huyệt mộ được gỡ tấm phủ để nhận chiếc quan tài, tôi nhận thấy một
cái rễ cây cam lớn chọc thẳng vào cái hố ấy. Nó tạo ra được sự thanh thản kỳ
lạ trong tôi. Trong một khoảnh khắc ngắn sự thật trần trụi về cái chết không
còn có thể giấu đằng sau ngôn ngữ hay cử chỉ lễ nghi. Nó ở đây: không
trung gian, không tô điểm, không thể nào ngoảnh mặt đi được. Cha tôi được
đưa sâu hơn xuống lòng đất, và vào lúc, khi chiếc quan tài cuối cùng cũng
mục nát, cơ thể cha sẽ góp phần nuôi dưỡng chiếc rễ ấy. Hơn bất cứ điều gì
đã được nói và làm ngày hôm ấy, chuyện này thật có lý với tôi.