cho thế giới nội tâm của ông. Cho dù cha đã giữ cho ngôi nhà sạch sẽ và bảo
quản nó y như cũ thì dù ít dù nhiều, nó vẫn trải qua một quá trình phân rã
chầm chậm không tránh khỏi. Cha ngăn nắp, cha luôn đặt mọi thứ vào chỗ
cần để, nhưng chẳng có gì được chăm sóc tới, chẳng có gì được dọn rửa. Nội
thất, đặc biệt là trong những căn phòng cha hiếm khi ghé qua, phủ đầy bụi,
mạng nhện, dấu hiệu của việc bị quên lãng hoàn toàn; lò nướng không thể
cứu vãn bởi cặn của những thứ thức ăn đã cháy thành than; trong tủ chén,
đôi khi mòn mỏi trên những chiếc kệ suốt nhiều năm là: những túi bột đã bị
mọt ăn, bánh quy đã mốc, từng túi đường đã vón cục, những hũ xi-rô không
còn có thể mở nắp. Mỗi khi tự nấu nướng, cha sẽ cần mẫn và ngay tức thì
rửa chén bát – nhưng chỉ xoa xoa chúng, chẳng bao giờ dùng đến xà phòng,
thế nên từng chiếc cốc, từng chiếc tách, từng chiếc đĩa đều đóng một lớp
màng nhớp nhúa. Suốt cả tòa nhà, những chiếc mành cửa lúc nào cũng đóng
kín đã đi đến nông nỗi chỉ việc kéo nhẹ thôi cũng khiến chúng rách toạc.
Ống nước rò rỉ và làm gỉ ố hết cả đồ đạc, lò sưởi không bao giờ tạo đủ hơi
ấm, vòi hoa sen không hoạt động. Tòa nhà trở nên tiều tụy và trầm uất khiến
chẳng ai muốn bước vào. Bạn có cảm giác như mình vừa bước vào nhà của
một kẻ mù lòa.
Bạn bè và gia đình cha, cảm nhận được sự điên rồ trong cách ông sinh
sống tại tòa nhà đó, liên tục thúc giục ông bán nhà chuyển đi nơi khác. Thế
nhưng ông luôn tìm cách gạt phắt họ đi với thái độ lập lờ “Ở đây tôi thấy
hạnh phúc,” hoặc “Ngôi nhà hợp với tôi.” Tuy nhiên, cuối cùng thì cha cũng
chịu đi. Vào đúng phút cuối. Trong cuộc trò chuyện qua điện thoại cuối cùng
mà chúng tôi có, mười ngày trước khi cha qua đời, ông nói nhà đã được bán
và việc chuyển đi sẽ diễn ra vào ngày mùng một tháng Hai, còn khoảng ba
tuần nữa. Cha muốn biết tôi có sử dụng được món nào trong nhà không, và
tôi đồng ý sẽ ghé qua cùng vợ và Daniel ngay khi có một ngày rỗi rãi. Cha
mất trước khi chúng tôi có cơ hội làm điều đó.
* * *