xương tủy. Như thể trên đà tiến tới nguồn kiến thức đã bị chôn giấu trước
kia, anh hít sâu tới tận xương tủy và bảo với mình, gần như là đắc thắng:
mình bị lạc.
* * *
Cuộc sống của anh dường như không còn neo đậu trong hiện tại. Mỗi lần
thấy một đứa trẻ, anh lại cố tưởng tượng nó sẽ trông như thế nào khi đã lớn.
Mỗi lần thấy một cụ già, anh lại cố tưởng tượng xem người đó trông như thế
nào khi còn là một đứa trẻ.
Chuyện ấy luôn tồi tệ nhất với phụ nữ, đặc biệt là khi người phụ nữ ấy trẻ
và xinh đẹp. Anh không thể ngăn mình nhìn xuyên qua lớp da trên mặt cô ta
và tưởng tượng những mảnh xương vô hình đằng sau nó. Và khuôn mặt
càng xinh đẹp, thì mong muốn tìm kiếm trong nó những dấu hiệu tuổi già
đang xâm lăng của anh càng mãnh liệt: những nếp nhăn mới chớm, nhưng
cái cằm thế nào cũng chảy xệ, những ánh nhìn đờ đẫn đầy thất vọng trong
mắt. Anh muốn đặt một khuôn mặt này lên khuôn mặt khác: người phụ nữ
này ở độ tuổi bốn mươi; người phụ nữ này ở độ tuổi sáu mươi; người phụ nữ
này ở độ tuổi tám mươi; như thể, thậm chí khi đang đứng trong hiện tại, anh
cảm thấy mình buộc phải săn đuổi tương lai, lần theo cái chết đang sống
trong mỗi con người.
Một thời gian sau, anh đọc được những suy nghĩ tương tự trong một lá thư
của Flaubert gửi tới Louise Colet (tháng Tám, 1846) và kinh ngạc vì sự
giống nhau: “… Tôi luôn cảm nhận được tương lai và phản đề của tất cả mọi
điều luôn hiện ra trước mắt tôi. Tôi chưa bao giờ nhìn thấy một đứa trẻ mà
không nghĩ về chuyện nó lớn lên, hay nhìn một cái nôi mà không nghĩ tới
nấm mồ. Hình ảnh một phụ nữ khỏa thân làm tôi nghĩ đến bộ xương của cô
ta.”
Đi bộ dọc qua các hành lang của bệnh viện và nghe tiếng người đàn ông
đang bị cắt bỏ chân gào la thảm thiết: Đau quá, đau quá. Mùa hè năm ấy
(1979), mỗi ngày dài hơn cả tháng, đi xuyên thành phố tới bệnh viện ấy, hơi