nguyên của trí tưởng tượng. Bằng cách đặt mình vào bóng tối ấy, S., đã phát
minh ra cách mơ với đôi mắt mở.
Là một cựu sinh viên của Vincent D’Indy
, S. đã từng được coi là một
trong những nhà soạn nhạc đầy hứa hẹn. Tuy nhiên, trong suốt hai mươi
năm, không một bản nhạc nào của ông được biểu diễn nơi công cộng. Ngây
thơ trong tất cả mọi điều, nhưng đặc biệt là về chính trị, ông đã phạm sai
lầm khi cho hai bản nhạc của mình được biểu diễn tại Paris trong thời gian
chiến tranh – Symphonie de Feuvà Hommage à Jules Verne, mỗi bản yêu
cầu phải có sự tham gia của hơn một trăm ba mươi nhạc công. Đó là vào
năm 1943, thời quyền lực của quân chiếm đóng Nazi vẫn còn mạnh nhất.
Khi chiến tranh kết thúc, mọi người kết luận rằng S. là kẻ đồng lõa, và cho
dù chẳng có gì để suy diễn xa hơn từ sự thật, ông đã bị dán nhãn đen trong
nền âm nhạc nước Pháp – bằng những lời bóng gió và sự đồng tình trong im
lặng, chứ không phải là sự công kích trực tiếp. Dấu hiệu duy nhất cho thấy
có đồng nghiệp nào đó vẫn nhớ tới ông là tấm thiệp Giáng sinh ông vẫn
nhận được từ Nadia Boulanger
Là một kẻ nói lắp, một người đàn ông trẻ con rất dễ bị vang đỏ dụ dỗ, ông
quá thiếu mưu mẹo, quá ngốc nghếch trong thế giới hiểm độc, đến nỗi
không thể tự bảo vệ mình khỏi những kẻ vu cáo giấu mặt. Ông chỉ đơn giản
rút lui, giấu mình đằng sau mặt nạ của vẻ lập dị. Ông tự xưng mình là một
mục sư dòng Chính thống (ông là người Nga), nuôi bộ râu dài, mặc áo
chùng đen, và đổi tên là Abbaye de la Tour du Calame, cùng lúc ấy vẫn tiếp
tục – thất thường, giữa những cơn ngẩn ngơ – với công việc của đời mình:
ba bản nhạc giao hưởng, bốn bản hợp xướng phải mất mười hai ngày mới
biểu diễn xong. Trong nỗi đau đớn của mình, trong những hoàn cảnh cùng
khổ của đời mình, ông lại tìm đến A. và quan sát, lắp bắp trong tuyệt vọng,
đôi mắt xám của ông lóe lên, “Tất cả mọi điều là một phép màu. Chưa bao
giờ có thời đại nào tuyệt vời hơn thời đại này”.
Mặt trời không chiếu được vào phòng ông ở Place Pinel. Ông che kín cửa
sổ với những bộ quần áo màu đen nặng nề, và chút ánh sáng đến từ những
chiếc đèn mờ ảo được xếp đặt có mục đích. Căn phòng không rộng hơn một
toa xe lửa hạng hai, và ít nhiều có chung hình dạng: hẹp, trần cao, với một