nhường nào, nửa thì cô có vẻ hơi e lệ về điều đó. Cô mặc một chiếc váy dự
tiệc đơn giản màu đen có lẽ xuất xứ Paris và có giá trị hơn một chiếc xe hơi.
Nhưng cô không cần tới nó. Cô có thể mặc bất kỳ thứ gì chắp vá từ bao bố
cũ mà cũng không hề làm vẻ đẹp suy suyển chút nào.
Chúng tôi theo cô vào trong và mẹ cô theo sau chúng tôi. Khu phòng
này gồm ba phòng. Một phòng khách ở giữa, hai phòng ngủ hai bên. Phòng
khách có đủ các thứ đồ nội thất, kể cả bàn ăn. Trên đó có những thứ còn lại
của một bữa ăn đêm phục vụ tại phòng, ở góc phòng có những túi đựng đồ
mua sắm. Hai chiếc từ cửa hiệu Bergdorf Goodman, hai chiếc từ cửa hiệu
Tiffany. Theresa Lee lấy phù hiệu ra còn Lila Hoth bước tới cái tủ thấp dưới
một tấm gương rồi trở lại với hai cuốn sách mỏng đưa cho Lee. Hộ chiếu
của họ. Cô nghĩ các vị khách là công chức nhà nước ở New York muốn xem
giấy tờ. Hai cuốn hộ chiếu màu hạt dẻ, bìa mỗi cuốn đều in hình con đại
bàng màu vàng ở giữa, phía trên có những chữ kiểu Nga còn bên dưới có
dòng chữ giống như NACNOPTYKPAIHA bằng tiếng Anh. Lee lật lật cả hai
cuốn rồi mang để lại trên cái tủ thấp.
Rồi tất cả ngồi xuống. Svetlana Hoth chằm chằm nhìn thẳng về trước,
vô hồn, bị loại khỏi cuộc nói chuyện vì rào cản ngôn ngữ. Lila Hoth nhìn
chúng tôi một cách cẩn thận, trong đầu hình thành nhân dạng của cả hai.
Một cảnh sát từ đồn khu vực, một là nhân chứng trên tàu. Cuối cùng cô
nhìn thẳng vào tôi, có lẽ vì cô nghĩ tôi đã bị các sự kiện tác động nghiêm
trọng hơn. Tôi không kêu ca. Tôi không thể rời mắt khỏi cô.
Cô bảo, “Tôi rất tiếc về chuyện đã xảy ra với Susan Mark.”
Giọng cô thấp. Phát âm của cô chuẩn. Hoth nói tiếng Anh rất tốt. Hơi
nhấn nhá, hơi trang trọng. Như thể cô học tiếng Anh từ những bộ phim đen
trắng, cả giọng Mỹ và Anh.
Theresa Lee không nói gì. Tôi lên tiếng, “Chúng tôi không biết
chuyện gì đã xảy ra với Susan Mark. Không hẳn là biết. Ý tôi nói là ngoài
những dữ kiện đã rõ ràng.”