Bess đỏ mặt. “ôi, thôi đi,” nó nói. “Cậu ấy chỉ cố tỏ ra thân thiện thôi mà.”
“Vậy sao,” tôi trêu. “Và tôi chắc là bà chẳng thèm để ý thấy cậu ấy duyên
dáng thế nào đâu nhỉ. Hay cái giọng Pháp quyến rũ ấy. Hay là cái cách cậu
ấy nhìn bà suốt thời gian bọn mình ở đó.”
“Sao cũng được.” Bess chỉ tay về phía nhà ông Geffington khi cả bọn đi
ngang qua. “Này, bà không muốn dừng lại xem xét hay làm gì sao? Ý tôi là,
có lẽ bây giờ mọi thứ đã được dọn dẹp rồi, nhưng biết đâu vẫn có thể tìm
được vài nhân chứng thì sao. Khoai tây còn có mắt, bắp còn có tai cơ mà.”
Tôi rên lên phản đối câu đùa nhạt hoét của Bess. Rõ ràng nó đang cố đổi đề
tài nên thôi, tôi cũng chẳng trêu nó nữa. “Không, tôi nghĩ tốt hơn là đi nói
chuyện với chú Safer cái đã,” tôi nói. “Chú ấy là đối tượng tình nghi chính -
theo như bác G. nghĩ. Chắc chú Safer không làm chuyện đó đâu, nhưng có
thể chú ấy đã nhìn hoặc nghe thấy điều gì chăng, và chú ấy sẽ cho tụi mình
dấu vết tìm đến thủ phạm thực sự.”
George nhún vai. “Nghe có vẻ là một kế hoạch tốt đấy,” nó nói. “Chỉ cần
đừng có đứa nào dại dột hỏi gần đây chú có xem vở kịch nào hay hay
không, kẻo chẳng đời nào chuồn được đâu.”
Chúng tôi bước lên những bậc thang dẫn lối xuống sân nhà chú Safer.
Không giống như ở hầu hết những ngôi nhà cùng dãy - thường xây bằng đá
hoặc xi măng - cầu thang nhà chú Safer được tô điểm bằng những mảnh
thủy tinh màu, tạo thành một dãy màu cầu vồng.
Tôi dẫn đầu bước đến cửa trước. Khi tôi nhấn chuông cửa, cả bọn đều nghe
vọng ra giai điệu nhè nhẹ của bài Somewhere over the rainbow”
Chẳng mấy chốc có tiếng bước chân về phía chúng tôi. Một giây sau cửa
mở tung ra - và kia là chú Harold Safer, với một cái vồ lớn trong tay.