“Được thế thì may quá có cô bé ở đây,” chú Safer nói, rồi dẫn chúng tôi
xuống bếp ở sau nhà. “Không treo được cái màn đó thì chú đến phát điên
mất. Chú cứ tưởng đâu chỉ mất một phút thôi; còn phải quay lại làm việc
nữa chứ. Đã thế lại còn cái tên hàng xóm gàn dở cứ trừng trừng liếc sang
đây mỗi lần chú vô bếp. Tin nổi không, chỉ vì có kẻ nào đó phá tanh bành
khu vườn của hắn thế là hắn nghĩ ngay chú là thủ phạm. Phải chi các cháu
thấy cảnh tối qua - hắn ra ngoài nhổ cỏ, và nhìn chú bẩn thỉu đến nỗi chú
muốn đi tắm ngay lập tức!”
Chúng tôi vào bếp. Căn bếp rộng rãi và sạch sẽ, những bức tường trắng
được trang trí bằng áp phích của các buổi diễn tại nhà hát Broadway lồng
trong khung. Những cửa sổ lớn nhìn ra sân sau và sân bên hông nhà. Một
thanh treo màn bằng đồng sáng bóng, một bộ màn bằng vải lanh, nhiều cây
đinh cong queo, và một đống bụi nhỏ đang nằm trên sàn nhà - dưới cửa sổ
bên hông.
“Vâng, bọn cháu cũng nghe về chuyện mấy dây bí rồi,” tôi nói. “Thật ra,
chính vì thế mà bọn cháu đến đây, để tìm kẻ nào đã thật sự gây ra chuyện
đó.”
“Thế hả? Tốt lắm,” chú Safer vừa nói vừa ngồi phịch xuống một cái ghế
đẩu cao bên quầy bếp. “Vì tới giờ phút này chú sợ phải đi ra ngoài lắm rồi!”
Tôi biết câu nói ấy có hơi quá, nhưng nó nhắc tôi cần phải xem xét vụ bí ẩn
này một cách nghiêm túc, ngay cả khi tụi bạn tôi không thèm quan tâm đi
chăng nữa. Một mối giao hảo xóm giềng đang bị đe dọa. Nếu giờ vì ông
Geffington mà chú Safer phải treo một tấm màn làm che khuất một phần
tầm ngắm cảnh quý báu của mình thì mọi việc hẳn đã tồi tệ lắm rồi.
Ngay lúc đó Bess bước vào, tay cầm một cái búa nhỏ và vài dụng cụ khác.
“Chúng ta bắt đầu thôi,” nó vui vẻ nói. “Thứ này được việc hơn cái vồ hồi
nãy nhiều đấy ạ. Nào, George, phụ em một tay.”