Khi hai chị em họ bắt tay vào làm việc, tôi ngồi cạnh chú Safer bên quầy.
“Chú có thể trả lời giúp cháu vài câu được không ạ?” tôi lên tiếng.
“Cứ hỏi đi, Nancy,” chú nhún vai. “Chú chẳng có gì phải giấu cháu hay bất
kỳ ai cả, dù cái tên láng giềng thiếu suy nghĩ bị bí ngòi ám kia có nói thế
nào đi chăng nữa. Lời buộc tội của hắn quả thật buồn cười. Cháu có thể
tưởng tượng ra cảnh chú lẻn vào vườn nhà hắn trong đêm tối, tay cầm một
cái dùi cui thô thiển và đập phá đám rau củ quý báu của hắn không? Dẫu
vậy cảnh tượng đó cũng khiến chú nhớ đến câu đùa tếu xưa kia: Bạn sẽ
được gì khi một con voi bước qua vườn nhà bạn?”
“Được gì ạ?” tôi hỏi.
“Nát bét
!” chú Safer cười.
“Đúng là thế thật,” tôi lịch sự cười theo. Có thể nhận thấy, như thường lệ,
thật khó mà ngắt lời một khi chú Safer đã bắt đầu nói. “Chú có thấy hay
nghe được điều gì bất thường hồi tối thứ Ba không ạ?”
“Chẳng gì cả,” chú nhún vai. “Chú nhớ tối hôm đó ngắm hoàng hôn xong là
chú vào nhà ngay và nghe vở Fiddler on the Roof
. Đó là một trong những
vở chú thích nhất nên đã mở âm thanh khá to. Thật ra, chú gần như không
nghe thấy cả tiếng chuông cửa khi cô Zucker và nhóc Owen ghé qua sau
bữa ăn tối để vận động tiền cho Ngày Hội Đe Búa nữa cơ mà. Cho nên, dĩ
nhiên là chú chẳng nghe thấy gì đang xảy ra ở nhà kế bên, trừ phi có đại bác
nổ thì còn may ra.”
“Cháu hiểu rồi,” tôi nói. “Thế chú có thấy hiện trường sáng hôm sau
không? Ý cháu là mấy dây bí nát bét đó.”
“Không,” chú đáp. “Cháu cũng biết đấy, đến mười giờ sáng chú mới mở
cửa tiệm, và hầu như chẳng có sáng nào chú dậy trước chín giờ cả. Lúc chú
nhìn ra cửa sổ thì chắc là Bradley đã dọn dẹp mớ lộn xộn kia rồi. Ít nhất thì
chú chẳng để ý thấy gì cả - thậm chí cho tới khi hắn xông vào tiệm và
nguyền rủa chú.”