đốỉ xử tệ với cô, chỉ nấu cơm cho mẹ con tôi thì cô cũng không vất vả lắm
đâu...”
“Rắm thối!” Nghê Xuân Yến không kìm được, cắt ngang lời anh. Toàn thân
cô run rẩy, buột miệng mắng: “Mục Dục Vũ, mười mấy năm rồi mà anh vẫn
không thay đổi, anh xem tôi...”
Cô vụt im bặt, lồng ngực phập phồng, gắng sức đè nén cơn giận. Một lúc
sau, cô giơ tay ra vuốt tóc, hít một hơi thật sâu rồi thản nhiên nói: “Xin lỗi
Mục tiên sinh, con người tôi là thế, không biết cầu tiến là gì, đành bó tay
thôi, tôi kém cỏi mà, bẩm sinh đã không làm nên trò trống gì, ý tốt của ngài
chúng tôi đã hiểu, nhưng thật sự chúng tôi không thể nhận, ngài đừng nghĩ
tôi đang làm cao với ngài, tôi nói thật là nhà chúng tôi rất bận, không có thời
gian để phục vụ hai vị. Thật ngại quá.”
Cô ngẫm nghĩ rồi vẫn đưa canh ra, nói: “Món canh này, dù ngài nghĩ thế
nào, tôi chỉ đến để cảm ơn cô giáo Mục, dì ấy rất thương Tiểu Siêu nhà
chúng tôi, dì ấy là một người tốt, tôi chúc dì ấy sớm bình phục. Chút thành ý
mà thôi, tôi vừa nghèo lại ngốc, cũng chỉ giỏi món này, ngài khinh thường
cũng đành chịu.”
Nghê Xuân Yến chờ một lúc cũng không thấy Mục Dục Vũ đưa tay ra nhận,
cô thở dài rồi đặt hộp cơm xuống đất, nói nhỏ: “Làm phiền rồi.”
Dứt lời, Nghê Xuân Yến liền luống cuống kéo cậu em quay đi, khiến cậu ta
loạng choạng suýt ngã. Mục Dục Vũ để ý thấy hình như cô vừa đi vừa đưa
ống tay áo chùi mạnh lên mặt, lát sau anh mới ý thức được rằng không phải
cô lau mặt, mà là cô vừa đi vừa lau nước mắt.
Vào cái đêm năm mười sáu tuổi ấy, có phải cô cũng vừa đi vừa lau nước mắt
thế này hay không? Cho dù nước mắt đầm đìa trên mặt thì có lẽ cô cũng sẽ
không khóc thành tiếng. Cô và Diệp Chỉ Lan hoàn toàn khác nhau. Nếu
Diệp Chỉ Lan buồn bã, cô ta sẽ biểu hiện ra ngoài bằng sự kích động gấp
mười lần nỗi đau, cô ta sẽ vô thức đòi hỏi người xung quanh phải coi trọng
nỗi đau của cô ta, an ủi cô ta, cho rằng cô ta là người phụ nữ đáng thương