Và anh làm theo. “Đánh thử xem nào,” anh vừa nói vừa giả vờ đấm cô
bằng tay phải, cô đáp trả bằng một cú đấm móc bằng tay trái, cô mảnh
khảnh nhưng lại khá dẻo dai - đấm, đấm vào cẳng tay giơ cao và nắm đấm
đang nhấp nhô, thụi một cái rõ mạnh vào bụng anh, cho đến khi cô cúi gập
người lại vì nếu cười quá nhiều cô sẽ tè cả ra quần, và vì mắt cô đã nhòe đi
vì nước mắt nên không thấy đường để đấm anh nữa.
“Mời hàng xóm sang cùng ăn đi,” anh bảo cô. “Anh sẽ đi gọi Trese và
Hector. Evan yêu quý, nhóm một đống lửa lớn ở sân sau cho bố nhé.”
Evan chạy đi ngay. Nó mười hai tuổi, là đứa lớn nhất.
Nai nướng và bắp luộc, đủ cho cả xóm, và cả xóm đang tụ tập ở sân sau.
Mặt trời xuống núi, lửa bốc lên cao, mặt trăng cũng lên cao. Hector ngồi
dưới cái mền, mắt mở to và miệng mỉm cười, chân gõ nhịp nhàng theo
tiếng đàn violon của Prince Crawley già nua. Lần đầu tiên từ khi bị đuổi
việc Teresa thấy vui vẻ trở lại. Cô đã quên mất những niềm vui ngọt ngào
của xã hội, của việc huyên thuyên trò chuyện với mọi người, xung quanh là
những đứa trẻ, thức ăn và tiếng nhạc. Cô đã nấu món cà ri cá thích hợp để
cứu sống người chết - khẳng định lại lần nữa danh hiệu đầu bếp hàng đầu
khu vực Tây Ấn - và một bình kem để làm dịu đi cái nóng. Cô đi xa đến
mức để mình bị Adelaide thuyết phục đứng lên hát - “Bài này dành cho em
thôi đó, Addy, và chỉ lần này thôi đó.” Teresa hát bài hát mà mẹ cô,
Clarisse vẫn hay hát cho cô và Ginger nghe:
“Cầy mangut tinh quái, dù tinh quái nhưng con chó vẫn biết lối mày đi.
Cầy mangut tinh quái, tinh quái vậy nhưng con mèo đang đứng trên đường
mày đi…”
Và bài hát nào có hay ho gì nếu bạn không nhảy theo nó? Teresa là một
vũ công tài ba khi lũ ngựa hoang đã đặt cô trên lưng và chuyển động. Khi
đã chuyển động, cô chỉ còn cảm nhận được hạnh phúc.
“Cầy mangut đi vào bếp của quý bà, bắt lấy hai trong số những con gà
nhanh nhất của bà, bỏ chúng vào túi áo vest của mình, Cầy Mangut tinh
quái…”