tâm há được hiền”.
Một đại Nho đời Minh là Lý Nhụ bình luận rằng: “Gia Cát Khổng Minh
làm thừa tướng mẫn tiệp quên mình, lại mong cầu được nghe những lời chỉ
bảo, những tướng quốc từ Tần Hán về sau đều không bằng ông ta vậy”.
Tư tưởng chính trị của Gia Cát Lượng là sự hỗn hợp giữa phái Nho gia và
Pháp trị. Ông ta xem trọng chế độ, khi định ra điều lệ quản lý, ắt nên dựa
vào lập trường lý tính, thấy mỗi người đều có thể làm ác, nên pháp lệnh
phải được chấp hành một cách nghiêm chỉnh; Trần Thọ khen ông ta về hình
pháp và chính lệnh đều rất nghiêm minh. Song về chấp hành ông ta rất xem
trọng việc lãnh đạo, người ở trên phải lấy mình làm gương mới có thể giáo
hoá được nhân dân và binh lính.
Trong thiên “Trị quốc” ở cuốn “Tiện nghi” của ông có nói việc trị quốc
giống như đối với sửa sang việc nhà, việc trong nhà ắt phải lo sửa gốc, gốc
có vững thì ngọn mới thẳng vậy... Nói về việc gốc, cách thông thường thì
quan trọng là ở qui củ vậy.
Ở đoạn văn này, rõ ràng biểu thị tính quan trọng của chế độ, quốc gia có chế
độ của quốc gia, gia đình có chế độ của gia đình, là căn bản của việc điều
hành...
Trong thiên “Quân thần” có viết rằng:
“Vua lấy phô bày làm Nhân, bề tôi lấy công việc làm Nghĩa, kẻ hai lòng
chẳng thể thờ vua, kẻ nghi ngờ chánh sự chẳng thể trao quan chức, trên
dưới giữ được Lễ thì dân dễ khiến trên dưới hoà thuận thì vua chúa và bề
tôi đều vẻ vang; vua lấy lễ mà sai khiến bề tôi, bề tôi lấy trung thành thờ
vua, vua lo ở công việc chính đáng, thần lo ở sự thờ phụng... quân thần trên
dưới lấy lễ làm gốc, phụ tử trên dưới lấy Ân làm thân gần, phu phụ trên
dưới lấy Hoà làm yên ấm...”.
Đoạn văn này cho thấy Gia Cát Lượng xem trọng giáo hoá tư cách. Giáo
hoá tư cách trọng ở lời nói, người chỉ đạo không chỉ nói mà không làm, có
làm gương tốt, thì mới có thể khiến chính lệnh được quán triệt, đấy chính là
tinh thần Nho học, lấy mình làm gương.
Gia Cát Lượng nghiêm khắc yêu cầu tự mình giữ gìn bổn phận cẩn thận,
chẳng mảy may cẩu thả. Khi xảy ra đại chiến Xích Bích, phụng mệnh Lưu