vậy, mẹ luôn lặp đi lặp lại một điệp khúc rằng tôi chính là nguyên nhân gây
ra những mối bất hòa giữa cha mẹ. Những lúc ấy, tai tôi lại ong lên, người
mỏi nhừ còn tay chân thì run lẩy bẩy. Tôi biết cách duy nhất thoát khỏi mẹ
là cứ đứng yên đó, mắt dán xuống sàn nhà, hy vọng rằng mẹ sẽ sớm kiệt
sức, không thể nói được nữa và buông tha cho tôi.
Năm tôi lên lớp hai, mẹ tôi có thai đứa con thứ tư. Cô giáo Moss bắt
đầu quan tâm đặc biệt đến sức tập trung của tôi trong giờ học. Tôi đã nói
dối rằng do tôi thức khuya xem tivi. Những lời nói dối của tôi xem ra chẳng
thuyết phục được cô. Thế là cô tiếp tục dò hỏi nguyên nhân tại sao tôi hay
ngủ gật trong lớp, về bộ quần áo tôi mặc và cả những vết thâm tím trên
người của tôi. Do mẹ đã vẽ sẵn những gì tôi cần phải nói với người khác về
bề ngoài của mình, vì vậy tôi dễ dàng lặp lại những lời bịa đặt ấy với cô
giáo.
Nhiều tháng trôi qua, cô Moss lại càng trở nên kiên trì hơn nữa với
trường hợp của tôi. Cuối cùng, vào một ngày nọ, cô đã bày tỏ nỗi lo lắng
của mình với thầy hiệu trưởng. Thầy vốn đã biết quá rõ tôi là một thằng ăn
cắp thức ăn, thế nên ông lại gọi cho mẹ. Ngày hôm đó khi về đến nhà, tôi
có cảm giác như ai đó vừa thả vào nhà tôi một quả bom nguyên tử. Mẹ tôi
trở nên dữ tợn hơn bao giờ hết. Bà điên tiết lên vì cho rằng có vài giáo viên
“lập dị” nào đó đã khép bà vào tội ngược đãi trẻ em. Mẹ nói rằng ngày hôm
sau bà ấy sẽ đến trường của tôi để bào chữa, thanh minh về những lời buộc
tội sai sự thật. Kết thúc buổi nói chuyện ấy, tôi bị chảy máu mũi hay lần và
bị gãy một cái răng.
Chiều hôm sau, khi tôi đi học về, mẹ nhìn tôi cười đắc ý như thể vừa
thắng được một triệu đô-la tiền cá cược vậy. Bà nói cho tôi biết bà đã che
đậy sự thật như thế nào khi đến gặp thầy hiệu trưởng cùng với đứa em
Russell của tôi trên tay. Mẹ đã nói với thầy hiệu trưởng rằng David bị
chứng hoang tưởng. Mẹ kể với thầy hiệu trưởng là David thường tự đánh
đập và cào cấu mình để thu hút sự chú ý và quan tâm của người khác kể từ