nguyên Ukrain: ốm yếu, đói khát với tâm trạng phấp phỏng lo âu, anh dốc
nốt đồng 50 kôpếch cuối cùng để mua tấm vé tầu trở về Ôđexxa, nhưng anh
đã bị bắt ngay trên bến cảng.
Truyện được tả lại bằng lối văn thích hợp với đề tài, không cường điệu
và phô trương. Nhưng trong, đó dường như vẫn vấn vương một điều gì
chưa giải quyết xong, nó tựa hồ như một hạt giống nếu gặp môi trường ắt
sẽ nảy sinh. Vào những năm 20, rõ ràng nhà văn không hề nghĩ tới cuộc đời
thứ hai của Rôđiôn Giukốp, ông cho rằng nói thế là đủ rồi. Nhưng khi ông
có ý định quay về với thời thơ ấu, trở lại năm 1905 thì những cái tưởng đã
phai mờ lại sống lại trong ký ức của ông dưới một nhãn quan khác, tinh
tường hơn, trong đó có Rôđiôn Giukốp.
Khi ông viết “Cánh buồm trắng cô độc” kể về những người bạn ấu thơ
giãi dầu trong sóng gió Hắc hải và cháy sạm dưới mặt trời phương nam, thì
cái chất bi tráng của câu chuyện mà ông đã viết về Giukốp không thật thích
hợp với sắc diện của cuốn sách nữa. Nhưng Giukốp vẫn trở lại, anh trở
thành cái cầu để đưa Pêchya và Gavrik đến với cuộc cách mạng đang sinh
sôi và phát triển. Trong bộ bốn tập “Sóng Hắc hải”, tuy là nhân vật quan
trọng, song Rôđiôn Giukốp vẫn chỉ đứng ở bình diện thứ hai. Từ câu
chuyện cũ, chỉ vài ba tình tiết được chọn lọc dựa vào bộ tiểu thuyết bốn tập
này, Giukốp con người thực đã nhường chỗ cho Giukốp tượng trưng và
Giukốp biểu tượng cho bối cảnh đấu tranh cách mạng đầy nguy hiểm của
thời kỳ bí mật.
Đối với trẻ em, nhất là đối với cậu học sinh hay mơ mộng Pêchya
Batsây, thế giới này đầy những bí ẩn hấp dẫn: những nhiệm vụ bí mật,
những cuộc gặp gỡ đáng ngờ văng vẳng những câu nói nghe lạ tai... Ở đây
tính lãng mạn nhiều màu sắc vốn có của biển khơi được nâng lên thành tính
lãng mạn mộc mạc, kín đáo của cuộc cách mạng. Sự kết hợp hài hòa ấy đã
làm cho câu chuyện vừa êm ái, thơ mộng vừa có cái không khí oi nồng, tức
tối của lúc trời sắp nổi cơn giông.