Ngược lại, thuyền phó thứ nhất là người vui tính, và cứ nhìn cái mũi
hồng tía, bóng loáng, sống gồ kiểu cổ La mã của ông ta thì biết ông ta
nghiện rượu, ông ta đích thị là linh hồn của xã hội. Ông ta khẽ luồn tay
xuống dưới bàn khẽ véo Pavlik và gọi nó là “chú bé ruxki”
, rất ân cần
đưa pho mát cho các bà và rót rượu vang cho các ông, hết quay sang phải
lại quay sang trái làm cho chiếc áo cổ đứng trắng như tuyết, hồ bột cứng đờ
kêu két két, ông ban phát những nụ cười hồn hậu của mình cho tất cả những
người đang ăn!
Trong bữa trưa, người ta cho ăn mì ống Ý thực sự rưới nước sốt cà
chua, thịt rán kèm với “fajôli” tức là đậu cô-ve, rồi đến món tráng miệng:
những quả cam tròn còn cả cành và lá, những quả vả màu xanh tím nhăn
nheo và hạnh nhân tươi không phải dùng kẹp bóp vỡ, mà có thể cắt dễ dàng
bằng dao ăn cùng với lớp da dầy xanh lục và lớp vỏ trong còn mềm.
Có điều hơi phiền là món ăn do người hầu bàn đem đến! Anh ta nâng
cái khay mensis bằng tay trái, đưa món ăn cho khách, khách phải tự lấy lấy,
khách giữ ý nên bao giờ cũng lấy ít hơn nhiều so với mức mình muốn.
Nhưng Vaxili Pêtrôvits dứt khoát không thích bữa ăn trưa có rượu
vang: ba người một chai thậm chí ông còn sợ là khác. Kể ra thì đấy là rượu
nhẹ, rượu vang Ý khá chua, và hành khách uống lẫn với nước, nhưng Vaxili
Pêtrôvits vẫn cứ sợ. Lần đầu tiên thấy cái chai to không nhãn hiệu trước bộ
đồ ăn của mình, ông lắc bộ râu và suýt hét lên với người bồi: “Cất ngay cái
của khỉ này đi”, nhưng ông kịp thời nén được và chỉ đẩy chai rượu ra, coi,
bộ gớm ghét ra mặt.
Nhưng sau này, khi đã nếm thử và thấy rõ là hãng tàu hoàn toàn không
có ý làm cho khách hạng hai của mình say bằng cách cho họ uống rượu
vang mạnh, đốt tiền, ông cho phép hai đứa trẻ pha mấy giọt vào nước uống,
để khỏi phí của, vì đằng nào cũng trả tiền rồi.
Hàng ngày, đấy là một trong những niềm vui lớn của Pêchya và
Pavlik, làm cho bữa ăn thêm tươi.