ở một số chỗ đã biến thành đám đông. Khi len qua những đám đông ấy,
Pêchya cảm thấy những luồng mắt hằn học nhìn nó, như sờ nắn cái mũ lưỡi
trai gắn quốc huy, những chiếc khuy sáng trên áo bludông và cái thắt lưng
có khóa đồng phục.
Mặc dù đường phố đã chan hòa ánh hồng tươi sáng của vầng mặt trời
sớm mai và trong bầu không khí tháng tư đã vang lên tiếng gọi nhau trong
trẻo, tươi vui của những chiếc đầu tàu dồn toa, nhưng một bóng đen tang
tóc vô hình vẫn bao trùm lên hết thảy.
Ở giữa phố, như thường lệ, viên cảnh sát đứng tuổi của xóm Cối Xay
Gần đang thủng thẳng dạo bước, người này thì Pêchya quen mặt. Nhưng
đến ngã tư, Pêchya thấy một viên cảnh sát lạ. Theo thói quen, Pêchya chào
người cảnh sát quen biết, lễ phép nhấc mũ lưỡi trai lên, còn khi đi ngang
qua trước mặt người cảnh sát lạ mặt, tuy mắt nhìn xuống, nhưng nó vẫn
thấy viên cảnh sát này nhìn nó từ đầu đến chân, cặp mắt giận dữ long sòng
sọc trên bộ mặt lính trẻ trung.
Trong thành phố, đám trẻ bán báo chạy hối hà, miệng rao to: “Tin chi
tiết về vụ sông Lêna, năm trăm người bị giết và bị thương...”
Tại trường học, trong các giờ học và giờ ra chơi, không khí im lặng
khác thường. Trên đường về, chưa tới xóm Cối Xay Gần, Pêchya đã nghe
thấy một hồi còi nhà máy, rồi hồi thứ hai, thử ba, và chẳng bao lâu cả
không trung đều rền rĩ tiếng còi.
Ở ngã tư, chỗ buổi sáng có người cảnh sát lạ đứng, bây giờ Pêchya
nhìn thấy một đám người đông nghịt, đám người này mỗi lúc một đông
thêm: từng nhóm và lè tẻ từng người chạy trên các phố xá, các bãi trống và
vườn cây, đến nhập thêm vào đám đông này.
Pêchya hiểu rằng đây là cuộc đình công, đám đông này gồm công
nhân của các nhà máy và công xướng, họ vừa bỏ việc đến đây.
Pêchya muốn quay trở lại và đi vòng qua đám người nhưng lúc đó từ
phía sau, một đám đông khác ào tới và cuốn chú bé đi theo. Hai đám người