cây, đang hái quả; ông nhìn thấy những con ngựa thả rong đang ăn cỏ và
hai chiếc xe dàn không hiểu từ đâu ra. Cuối cùng ông nhìn thấy bà chị vợ
đang đi về phía ông, dáng đi thoăn thoắt, rắn rỏi và miệng tươi cười.
- Thế đấy, chú Vaxili Pêtrôvits, mọi chuyện đều ổn thỏa không chê vào
đâu được!
- Chị nói chuyện gì đấy? - ông hỏi bằng giọng buồn tẻ, dửng dưng.
Gương mặt ông thể hiện cái cười lạ lùng, đờ đẫn của người mộng du, khiến
bà chị sửng sốt.
- Chị nói chuyện gì vậy? - ông nhắc lại một cách lơ đãng.
- Trời ơi, tôi còn có thể nói chuyện gì khác, nếu không phải về mùa
quả của chúng ta, về anh đào của chúng ta! - bà chị vui vẻ trả lời.
Nhưng nghe thấy hai tiếng “anh đào”, ông Vaxili Pêtrôvits giật thót
người như bị ong châm.
- Không, không! Vì Chúa! - ông rên rỉ. - Vì Chúa, vì Chúa, xin giải
thoát cho tôi cái cực hình này...
- Thì chú hãy nghe tôi đã, - bà chị dịu dàng nói.
- Không! Tôi không muốn nghe! Không trông mong gì hết! Thà ra
cảng khuân vác bao hàng còn hơn! - Ông Vaxili Pêtrôvits kêu lên bằng
giọng đau khổ và cắm đầu chạy bổ vào nhà, hai tay khua khua một cách vô
nghĩa và chân vấp lập cập.
- Thì ít nhất chú cũng nghe tôi nói chứ! - bà chị gọi với theo.
Nhưng ông im lặng, không muốn hiểu gì hết, ngoài một điều là những
trò ngông cuồng dấm dớ và sẽ lại thất bại không phương cứu vãn.
Ông lại nằm xuống chiếc ghế gấp, quay mặt vào tường, thiết tha mong
mỏi có một điều: đừng ai dộng đến ông nữa.
Và bà chị vợ bỏ mặc ông thật, bà biết rằng có nói cũng phí lời. Trong
hai ngày, mọi việc đều xong xuôi, ông Vaxili Pêtrôvits không dính líu gì