đầy, không còn hiểu mình đang làm gì. Đó là lòng căm thù đạt tới mức mê
say, và mê say tới mức căm thù. Cái vị ngọt chua chua làm cho hàm cứng
lại. Trán vã mồ hôi. Phải khó nhọc lắm mới nuốt trôi miếng mứt – cổ họng
cứ thắt lại từng cơn. Nhưng hai thằng bé vẫn cứ ăn mứt như ăn cháo vậy.
Thậm chí không phải là chúng ăn, mà là vật lộn với mứt, cốt mau mau tiêu
diệt nó đi như tiêu diệt kẻ thù. Mãi tới khi ở đáy bình sâu chỉ còn lại một
lớp mứt mỏng dính, không thể nào dùng thìa mức được, chúng mới tỉnh
cơn mê.
Đến lúc này Pêchya mới hiểu hết sự khủng khiếp của cái việc chúng
đã làm. Giống như những kẻ phạm tội muộn nhanh chóng xóa đi dấu vết
phạm tội của mình, hai thằng bé chạy xuống bếp, hứng cái bình dính mứt
dưới vòi nước và ra sức súc, nhưng cũng không quên dốc hết tàn lực thay
phiên nhau uống thứ nước ngọt đục ngầu trong bình.
Khi cái bình đã sạch bóng và được lau khô thì không hiểu vì sao,
Pêchya lại đặt nó vào đúng chõ cũ trong tủ thức ăn, tuồng như bằng cách đó
có thể cứu vãn được tình thế. Pêchya tự an ủi bằng một hy vọng ngớ ngẩn:
có thể bác đã quên cái bình mứt bà gửi cho, hoặc giả khi nhìn thấy cái bình
sạch bóng, bác sẽ tưởng cả nhà đã ăn hết từ lâu. Chính Pêchya cũng hiểu
rằng nghĩ như vậy là ngớ ngẩn (ấy là nói cho nhẹ lời).
Pêchya và Gavrik tránh không nhìn vào mặt nhau và trở lại bàn tiếp
tục học bài.
- Vậy là thế này, - Pêchya nói, gắng mấp máy đôi môi cứ mím lại vì
buồn nôn - Trong số hai mươi ba chữ, chúng ta đã viết được hai mươi chữ
của vần tiếng La tinh. Về sau, do hoàn cảnh lịch sử, trong bảng chữ cái ấy
lại có thêm hai chữ nữa...
- Cả thảy là hăm nhăm, - Gavrik nói và nuốt nước bọt, cảm thấy lợm
giọng.
- Chính thế. Viết đi!