Hai đứa trèo trên chiếc cầu thang bằng đá cũ kỹ, bậc thang đã mòn
nhẵn, lên tầng hai và vào hành lang trại lính. Ở đây tối tăm và lạnh lẽo như
cái hầm mồ, cảm giác ấy đặc biệt rõ vì ở bên ngoài là buổi trưa nắng chói
chang, oi bức.
Không chút ngập ngừng, Gavrik tìm ra trong bóng tối lờ mờ một lối
cửa, và hai đứa vào một căn phòng trần cuốn, tường dày đến nỗi hai chiếc
cửa sổ nhỏ ở trong hai cái hõm sâu tới 3 ác-sin chỉ cho rất ít ánh sáng ban
ngày lọt vào, mặc dầu cả hai cửa sổ đều trông ra mặt biển ngời sáng đối
diện ngay với bến cảng Karantin và cây đèn biển sơn trắng ở vũng tàu,
xung quanh cây đèn rợp cánh hải âu và ánh đèn lóe sáng rõ trên nền nước
xanh đen nổi sóng.
Một người lính thủy đeo cầu vai đỏ của đơn vị phục vụ trên bờ ngồi
sau chiếc máy khâu lớn. Người đó đang may viền lá cờ hiệu bằng vải len,
đôi chân không giày điều khiển chiếc bàn đạp bằng gang. Cơ man nào là cờ
hiệu chất đống trong góc phòng.
Nhìn thấy Gavrik, người lính thủy ngừng may, khuôn mặt rỗ chằng
chịt, đẫm mồ hôi của bác ta ánh lên nụ cười, nhưng nhìn thấy cậu học sinh
lạ mặt đứng sau Gavrik, bác ta dướn cao đôi lông mày lá lúa lên, vẻ dò hỏi.
- Không có gì đáng ngại, đây chính là con người kỳ quặc đã dạy cháu
tiếng La tinh, - Gavrik nói, và qua đó Pêchya có thể kết luận rằng người
lính thủy biết rõ hoàn cảnh sống của Gavrik.
- Có gì mới không? - người lính thủy hỏi.
- Chẳng có gì đặc biệt. - Gavrik trả lời, - hôm nay cháu đến tìm bác
không phải về việc đó, mà muốn nhờ bác một việc khác hẳn. Bác có thể
may cho anh chàng này, - Gavrik nghiêng đầu chỉ Pêchya - chiếc va-rơi hải
quân bằng Flanen được không, kiểu áo thủy quân thực sự ấy?
- Không có loại vải nào thích hợp.
- Cậu ta có. Pêchya đưa vải cho bác ấy xem.