thu hút sự chú ý của hành khách. Những chiếc thuyền độc mộc buôn bán,
lao ra từ chỗ của mình trên bờ sông với hàng hoá nhỏ nhoi, dứa, những cái
ghế thô sơ, và các thứ dụng cụ (đồ để dùng trong chuyến đi trên dòng sông,
một đặc sản của vùng), có thể được dính vào thành cả đám ở hai bên con
tàu, và những chiếc thuyền độc mộc đó có thể bị lôi đi, bị lôi đi – hàng dặm
xuôi dòng, và sau đó phải mất hàng giờ để chèo về, sau sự phấn khích ngắn
ngủi đó, xuyên qua buổi chiều nhợt nhạt, bụi và đêm, trong im lặng.
Yvette hoãn bữa trưa. Nhưng nàng không báo cho tôi. Người hầu mặc
áo khoác trắng dẫn tôi vào một căn phòng rõ ràng không chờ đợi người
khách nào và hoàn toàn không giống căn phòng mà tôi còn nhớ. Những tấm
đệm châu Phi vẫn nằm trên sàn nhà, nhưng mấy cái ghế gấp tối đó không
có (tôi còn nhớ Yvette từng nói chúng được cất trong buồng ngủ) đã được
mang ra trở lại – mấy cái ghế có đính tua giả nhung, với màu "đồng cũ" có
ở khắp nơi trong Khu.
Các toà nhà ở Khu đã được dựng lên nhanh, và những chỗ hổng mà
bóng tối che đậy nhìn thấy rõ vào ban ngày. Những chỗ trát vữa trên tường
nhiều chỗ đã bị nứt và tại một chỗ còn lở cả gạch bên trong ra. Những cánh
cửa sổ và cửa ra vào, không có vòng hoặc khung gỗ, trông giống như
những cái hố không đều nhau. Những tấm panel trần nhà, một thứ chất liệu
nén theo cách nào đó, bung ra ở một vài nơi. Một trong hai máy điều hoà
nhiệt độ trong phòng đã bị gỡ đi, chúng không chạy nữa. cửa sổ mở, và
không có mái chống nóng, không có cây bên ngoài, chỉ có mặt đất san
phẳng, căn phòng đầy ánh sáng và không hề đem lại cảm giác an toàn. Tôi
đã tự dựng cho mình biết bao là phóng túng quanh căn phòng này, quanh
âm nhạc từ máy quay đĩa – được đặt ở chỗ đó, dựa vào tường cạnh giá
sách, vỏ nhựa đục đầy bụi trong ánh nắng!
Thấy căn phòng như thế, như Yvette sống hàng ngày, hiểu thêm về địa
vị của Raymond trong nước, giống như bắt gặp sự không đề phòng và biết
được sự tầm thường trong nhà của nàng, một ý tưởng nào đó về những